video mạng phần cứng
Bìa và lời chú bản Gia phả họ Ngô Đáp Cầu do cụ NGÔ TRỌNG TỐ biên soạn năm 1877

Ngành thứ tám - Chi Ất

ĐỜI THỨ TÁM

NGÔ THẾ LƯƠNG, sinh năm 1809 (Kỷ Tỵ), thụy Thuần Cán, con trai thứ hai ông Ngô Thế Mỹ và bà Vũ Thị Bốn. Mất ngày 22 tháng 5 nhuận năm Đinh Tỵ (13-7-1857), hưởng dương 49 tuổi.

Bà: Hạ Thị Nhĩ (Hiên?), hiệu Thục Cung, sinh năm 1812. Mất ngày 07 (17?) tháng 4 nhuận năm Kỷ Dậu (1849) hưởng dương 38 tuổi.

Ông Bà sinh 3 trai: Thế Tiệm, Thế Sáng, Thế Khoán.

Đời thứ 9

Ngô Thế Tiệm, là con trai trưởng ông Ngô Thế Lương và bà Hạ Thị Nhĩ

Bà: .... Sinh 1 trai: Thế Thạch.

Đời thứ 10

Ngô Thế Thạch, là con trai trưởng ông Ngô Thế Tiệm

Bà: Trương Thị Đẫy. Ông bà sinh 2 trai, 2 gái: Thế Chạm, Thế Hãng, Thị ... (Bà Sạ), Thị Vượng (bà Hai Hạch).

Đời thứ 11

Ngô Thế Chạm (Hội Chạm), sinh năm 1884, là con trai trưởng ông Ngô Thế Thạch và bà Trương Thị Đẫy. Mất ngày 19-3 năm Canh Tý (14-4-1960), thọ 77 tuổi. Sinh thời ông là Phó hương hội trong làng, làm thầu khoán và buôn bán.

Nguyễn Thị Nhớn, người cùng làng, con gái Ông Lý trưởng Nguyễn Văn Bộ. Bà mất sớm, không có con. (Bà là chị ruột ông Huấn Dự họ Nguyễn).

Bà haiTrần Thị An, người làng Tiêu, Bắc Ninh. Sinh 3 trai, 4 gái: Thị Khuôn, Thế Duông, Thị Nếp, Thị Nết,  Thị Na, Thế Nùng, Thế Lãng.

- Ngô Thị Khuôn lấy ông Vũ Đình Hạo, thầy giáo, người cùng làng. Sinh 4 trai, 1 gái: Vũ Đình Uông (Bác sỹ), Vũ Đình Hộ, Vũ Đình Hiệp, Vũ Đình Phán (đều là kỹ sư), Vũ Thị Phú.

- Ngô Thị Nếp lấy ông Nguyễn Cát Tường, người Thị Cầu. Ông nguyên là Đổng lý văn phòng Bộ Giáo dục. Sinh Nguyễn Cát Bình Chánh thanh tra Bộ Giao Thông, Nguyễn Cát Giao Vụ trưởng Vụ quốc tế và kế hoạch - Bộ Lâm nghiệp, Nguyễn Cát Hồ Tiến sỹ toán, Nguyễn Thị Liên, Nguyễn Thị Lan, Nguyễn Thị Vân, Nguyễn Thị Nga.

- Ngô Thị Nết lấy ông Nghiêm Xuân Bính.

- Ngô Thị Na lấy ông Nguyễn Mậu Hanh.

Đời thứ 12

Ngô Thế Duông, sinh năm 1910, con trai trưởng ông Ngô Thế Chạm và bà Trần Thị An. Mất ngày 26-4 năm Kỷ Dậu (10-6-1969), thọ 60 tuổi. Ông nguyên là tham biện ngành vô tuyến điện,  nguyên Giám đốc Sở Vô tuyến điện Việt Nam

Mai Thị Đoan. Mất ngày 03-3 năm Giáp Thân (26-3-1944). Sinh 1 trai: Thế Thinh.

Bà kế: Nguyễn Mỵ Dung. Sinh 2 gái, 1 trai: Hương NhuThúy Trầm, Thế Huy.  

- Ngô Hương Nhu, Phó giáo sư, tiến sỹ toán học. Chồng là Lê Hùng kỹ sư vô tuyến điện.

- Ngô Thúy Trầm, kỹ sư vô tuyến điện, Cục phó Cục tần số. Chồng là Phan Hiệp, kỹ sư xây dựng

Đời thứ 13

Ảnh có chứa người, đàn ông, bộ đồ, ăn mặcMô tả được tạo tự động Ngô Thế Thinh, giáo viên Địa lý, sinh 02-4-1933, con trai trưởng ông Ngô Thế Duông và bà Mai Thị Đoan. Mất ngày 12-9 năm Đinh Dậu (31-10-2017). Thọ 85 tuổi. An táng tại nghĩa trang Đồng Bối, Đáp Cầu, Bắc Ninh.

Bà: Nguyễn Thị Hân. Sinh năm 1935, mất năm 2015, thọ 81 tuổi, mộ tại Đồng Bối. Sinh 1 gái, 1 trai: Thiên Hương, Thế Anh.

- Ngô Thiên Hương, bác sỹ, sinh năm 1961. Chồng là Huỳnh Hoà Bình, kỹ sư. Sinh 1 trai, 1 gái: Huỳnh Mỹ Đỗ (1985), Huỳnh Thị Hồng Hoa (1996).

Bà kế: Đặng Tường Vân. Sinh 1 trai: Thế Quân.

Đời thứ 14 

Ngô Thế Anh, sinh năm 1961. Con trai trưởng ông Ngô Thế Thinh và bà Nguyễn Thị Hân, kỹ sư mỏ địa chất. Nguyên cán bộ Tổng công ty cấp nước Hà Nội.

Bà: Nguyễn Thị Hiếu. Sinh năm 1960. Trung cấp Thương nghiệp, công tác tại Xí nghiệp Bánh kẹo Hà Nội, đã nghỉ hưu. Sinh 2 trai: Thế Dũng, Thế Đạt.

Đời thứ 15

Ngô Thế Dũng, sinh năm 1987. Con trai trưởng ông Ngô Thế Anh và bà Nguyễn Thị Hiếu.

Bà: Đỗ Thị Thùy Linh. Sinh năm 1995, quê Phúc La, Hà Đông. Sinh 1 trai: Thế Bảo An (2020).

Đời thứ 14

Ngô Thế Quân, sinh năm 1974, con trai thứ hai ông Ngô Thế Thinh và bà Đặng Tường Vân. Họa sỹ mỹ thuật công nghiệp, thầy thuốc Đông Y.

Bà: Nguyễn Thùy Linh, sinh 16/12/1988, con ông Nguyễn Văn Liêm và bà Tạ Kim Ngọc, quê Hạ Giáp, Phù Ninh, Phú Thọ. Sinh 1 trai: Thế Trực (10/11/2019).

Đời thứ 13

Ngô Thế Huy, kỹ sư cơ khí, sinh năm 1959, con trai ông Ngô Thế Duông và bà Nguyễn Mỵ Dung.

Bà: Đặng Thị Phúc. Sinh 2 gái : Hà Nhi, Hà Vi.

Đời thứ 12

Ngô Thế Nùng, sinh 31-12-1926, con trai thứ hai ông Ngô Thế Chạm và bà Trần Thị An. Đại tá Quân đội, Phó Giáo sư, nguyên phó trưởng khoa tên lửa Học viện Quốc Phòng. Mất ngày 29-8 năm Mậu Tuất (08-10-2018) thọ 93 tuổi. An táng tại Công viên vĩnh hằng, Lạc hồng viên, Kỳ sơn, Hòa Bình.

Bà: Trần Thị Phương, bí danh Hoàng Thị Phương Liên, sinh ngày 19-8-1931, đại úy, dược sỹ cao cấp.

Ông Bà sinh 4 trai, 1 gái: Việt Trung, Hoàng Hà, Hoàng Hải, Phương Lan, Việt Phương.

- Ngô Phương Lan, sinh năm 1959, cử nhân Đại học Ngoại thương. Nguyên cán bộ Tổng công ty thương mại Hà Nội. Chồng là Lê Ngọc Quang, sinh năm 1955, kỹ sư chế tạo máy. Công tác tại Ngân hàng ACB, đã nghỉ hưu. Ông bà sinh 2 gái: Lê Phương Ly, cử nhân ĐH Thương Mại Hà Nội. Chồng là Nguyễn Hữu Huy, sinh 1976, thạc sỹ quản trị kinh doanh tại Úc. Gia đình định cư tại Úc. Lê Phương Quỳnh, sinh năm 1995, cử nhân Học viện báo chí Hà Nội, phóng viên truyền hình VTV 6.

Đời thứ 13

Ngô Việt Trung, sinh năm 1954, con trai trưởng ông Ngô Thế Nùng và bà Trần Thị Phương. Cử nhân Đại học Ngoại thương, cựu quân nhân. Nghỉ hưu tại TP. Hồ Chí Minh.

Bà: Đỗ Thị Điều Liên. sinh năm 1953, cử nhân Đại học Ngoại thương, mất năm 2002. An táng tại TP. Hồ Chí Minh. Ông bà sinh 2 gái: Diệu Linh, Diệu Hương.

- Ngô Diệu Linh, sinh năm 1981, bác sỹ. Chồng là Nguyễn Quốc Nhật Phi, sinh 1979. Định cư tại Úc. Sinh 1 gái: Nguyễn Linh Lam (2009).

- Ngô Diệu Hương, sinh năm 1983, cử nhân kinh tế. Chồng người Hàn Quốc Cha Jeong Hun sinh 1972. Định cư tại Hàn Quốc. Ông bà sinh 1 gái: Soyon (2010).

Đời thứ 13

Ngô Hoàng Hà, sinh năm 1956, con trai thứ hai ông Ngô Thế Nùng và bà Trần Thị Phương. Kỹ sư, cử nhân chính trị. Giám đốc nhà máy nước sân bay Nội Bài. Đã nghỉ hưu.

Bà: Trần Thị Lan, sinh năm 1962, cử nhân y tế, cử nhân kinh tế. Bác sỹ bệnh viên Phụ sản Hà Nội. Đã nghỉ hưu. Sinh 1 gái, 1 trai: Phương Dung, Thế Vinh.

- Ngô Phương Dung, sinh năm 1985. Cử nhân học viện Tài chinh, công tác tại phòng kế toán bệnh viện Phụ sản Hà Nội. Chồng là Nguyễn Đức Anh, Giám đốc doanh nghiệp tư nhân. Sinh 2 trai: Nguyễn Tuấn Hùng (2008), Nguyễn Đức Minh (2019).

Đời thứ 14

Ngô Thế Vinh, sinh 1989. Con trai trưởng ông Ngô Hoàng Hà và bà Trần Thị Lan. Cử nhân kế toán, thạc sỹ kinh tế toàn cầu Anh Quốc. Chuyên viên ban Tài Chính tập đoàn dầu khí Việt Nam.

Bà: Dương Thương Huyền, sinh năm 1990. Cử nhân luật, cử nhân kế toán. Công tác tại Cục đăng ký Quốc gia giao dịch đảm bảo, Bộ Tư pháp.

Đời thứ 13

Ngô Hoàng Hải, sinh 1958, con trai thứ ba ông Ngô Thế Nùng và bà Trần Thị Phương. Nguyên chuyên viên vụ kế hoạch đầu tư, Bộ Giao thông Vận tải; kỹ sư máy Đại học Hàng Hải, Hải Phòng; kỹ sư đường bộ.

Bà: Nguyễn Ngọc Bích Hà, sinh 1959. Cán bộ Xí nghiệp bánh kéo Hà Nội, đã nghỉ hưu, đã ly hôn. Sinh 1 trai: Việt Dũng.

Đời thứ 14

Ngô Việt Dũng, sinh năm 1984, con trai ông Ngô Hoàng Hải và bà Nguyễn Ngọc Bích Hà. Cử nhân học viện Báo chí Hà Nội, thạc sỹ quản trị kinh doanh và marketing tại Anh quốc. Định cư tại Anh quốc.

Đời thứ 13

Ngô Việt Phương, sinh 29-02-1972, con trai thứ tư ông Ngô Thế Nùng và bà Trần Thị Phương. Thạc sỹ xây dựng, Giám đốc công ty CP Kiến trúc Hà Nội xanh.

Bà: Nguyễn Thu Hương, sinh 1986, cử nhân Học viện Tài chính, Giám đốc Công ty TNHH tư vấn tài chính kế toán và đại lý thuế Hà Nội. Sinh 1 gái, 1 trai: Thiên Thanh (2012), Thế Quyền (2015).

Đời thứ 12

Ngô Thế Lãng, con út ông Ngô Thế Chạm. Ông là Đại tá, nguyên Cục phó Cục Chính trị Hải quân, nguyên Giám đốc Nhà văn hoá Hải quân. Bị bệnh hiểm nghèo đã mất khi còn tại ngũ.

Bà: Nguyễn Thị An, cán bộ Công ty giao nhận Y cụ Hải Phòng, đã nghỉ hưu. Sinh 1 gái, 2 trai: Hà Quế, Phương Vũ, Thế Phương.

Ngô Hà Quế, chồng là … Tường.

Đời thứ 13

Ngô Phương Vũ, con trai trưởng ông Ngô Thế Lãng và bà Nguyễn Thị An. Công tác tại Công ty nạo vét đường biển Hải Phòng.

Bà : … Thu, công nhân Xí nghiệp Giày dép số 1 Hải Phòng. Sinh 1 gái, 1 trai: Thuỳ Linh, Phương Nam.

Đời thứ 13

Ngô Thế Phương, sĩ quan Hải quân, con trai thứ hai ông Ngô Thế Lãng và bà Nguyễn Thị An.

Đời thứ 11

Ngô Thế Hãng, sinh năm 1890, con trai thứ hai ông Ngô Thế Thạch và bà Trương Thị Đẫy. Sinh thời Ông là chủ sự bưu điện tỉnh Hưng Yên. Mất ngày 12-11 năm Quý Mão (27-12-1963). An táng tại nghĩa trang Đồng Bối, Đáp Cầu. 

Bà: Hạ Thị Tụ, sinh 1889, người cùng làng, nội trợ. Mất ngày 14-11 năm Ất Mão (16-12-1975). An táng tại nghĩa trang Đồng Bối, Đáp Cầu. Sinh 1 gái, 4 trai: Thị Sâm, Thế Tẩm, Trọng Tý, Thế Nhung, Thế Hồng.

- Ngô Thị Sâm, sinh năm 1916, giáo viên. Mất năm 1972. An táng tại nghĩa trang Đồng Bối, Đáp Cầu.

Đời thứ 12

Ngô Thế Tẩm, con trai trưởng ông Ngô Thế Hãng và bà Hạ Thị Tụ, sinh 1918. Ông sống và mất tại TP. Hồ Chí Minh ngày 26-6 năm Nhâm Ngọ (05-8-2002).

Bà: Vũ Thị Nhung, con ông Vũ Đình Bồn và bà Nguyễn Thị Lữ, người cùng làng. Bà sống và mất tại TP. Hồ Chí Minh ngày 14-10 năm Giáp Ngọ (05-12-2014). Sinh 1 trai, 1 gái: Thế Phú, Thị Liên.

- Ngô Thị Liên, sinh năm 1945, mất ngày 28-5 năm Canh Tý (18-7-2020) tại TP. Hồ Chí Minh.

Đời thứ 13

Ngô Thế Phú, sinh năm 1943, là con trai trưởng ông Ngô Thế Tẩm và bà Vũ Thị Nhung. Ông là kỹ sư điện đã nghỉ hưu tại TP. Hồ Chí Minh.

Đời thứ 12

Ngô Trọng Tý, con trai thứ hai ông Ngô Thế Hãng và bà Hạ Thị Tụ. Sinh năm 1920. Ông là thư ký bưu điện tỉnh Thái Nguyên, cán bộ Ty giáo dục tỉnh Vĩnh Phúc. Mất ngày 21-6 năm Kỷ Sửu (16-7-1949).

: Vũ Thị Từ. Sinh năm 1922, con ông Vũ Đình Phang và bà Mai Thị Tư, người cùng làng. Bà buôn bán tại Hà Nội. Mất ngày 25-8 năm Kỷ Mão (04-10-1999). An táng tại Đồng Bối, Đáp Cầu. Sinh 2 trai: Mạnh Dũng, Việt Cường.

Đời thứ 13

Ngô Mạnh Dũng, sinh năm 1943, con trai trưởng ông Ngô Trọng Tý và bà Vũ Thị Từ. Kỹ sư chế biến thủy sản, phó giám đốc Seaprodex Sài Gòn. Mất ngày 07-12 năm Mậu Tý (02-01-2008), an táng tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Bà: Phan Thị Nam. Sinh năm 1949. Giáo viên đã nghỉ hưu tại TP. Hồ Chí Minh. Sinh 2 trai: Mạnh Hà, Mạnh Quỳnh.

Đời thứ 14

Ngô Mạnh Hà, sinh 1971, con trai trưởng ông Ngô Mạnh Dũng và bà Phan Thị Nam, cử nhân đại học Kinh tế, sống và làm việc tại TP. Hồ Chí Minh. 

Đời thứ 14

Ngô Mạnh Quỳnh, sinh năm 1981, con trai thứ hai ông Ngô Mạnh Dũng và bà Phan Thị Nam. Cử nhân đại học Luật, sống và làm việc tại TP. Hồ Chí Minh.

Bà: Nguyễn Thị Ngọc Giầu, sinh 1987, cử nhân đại học Kinh tế. Sinh 4 trai: Mạnh Quang Khải, Mạnh Duy Phúc, Mạnh Hồng Đức, Mạnh Đức Trí.

Đời thứ 15

Ngô Mạnh Quang Khải, con trai trưởng ông Ngô Mạnh Quỳnh và bà Phan Thị Nam. Sinh 2014.

Đời thứ 15

Ngô Mạnh Duy Phúc, con trai thứ hai ông Ngô Mạnh Quỳnh và bà Phan Thị Nam. Sinh năm 2016.

Đời thứ 15

Ngô Mạnh Hồng Đức, con trai thứ ba ông Ngô Mạnh Quỳnh và bà Phan Thị Nam. Sinh năm 2018.

Đời thứ 15

Ngô Mạnh Đức Trí, con trai thứ tư ông Ngô Mạnh Quỳnh và bà Phan Thị Nam. Sinh năm 2020.

Đời thứ 13

Ngô Việt Cường, sinh năm 1948, con trai thứ hai ông Ngô Trọng Tý và bà Vũ Thị Từ. Chuyên viên tài chính tập đoàn Vinashin đã nghỉ hưu.

Bà: Đặng Phương Nga, sinh năm 1955, giáo viên. Đã nghỉ hưu. Sinh 1 trai: Minh Hoàng.

Đời thứ 14

Ngô Minh Hoàng, sinh năm 1988, con trai ông Ngô Việt Cường và bà Đặng Phương Nga. Cử nhân kinh tế bằng CFA Hoa Kỳ.

Bà: Nguyễn Hoài An, sinh năm 1988, thạc sỹ kinh tế. Sinh 1 gái: An Khuê (2020).

Đời thứ 12

Ngô Thế Nhung, sinh năm 1922, con trai thứ ba ông Ngô Thế Hãng và bà Hạ Thị Tụ. Chuyên viên bưu điện Hà Nội. Mất năm 2009. An táng tại nghĩa trang Đồng Bối, Đáp Cầu.

Bà: Nguyễn Thị Minh Loan , sinh năm 1928, quê Yna, Kinh Bắc, Bắc Ninh, giáo viên hưu trí tại Đáp Cầu, Bắc Ninh. Sinh 2 gái, 1 trai: Thanh DungMinh Dương, Quốc Hưng.

- Ngô Thị Thanh Dung, sinh năm 1959, hưu trí tại TP. Bắc Ninh.

- Ngô Thị Minh Dương, sinh năm 1965, hưu trí tại TP. Bắc Ninh. Sinh 1 gái: Trần Thị Thu Vân (1998).

Đời thứ 13

Ngô Quốc Hưng, sinh năm 1962, con trai duy nhất ông Ngô Thế Nhung và bà Nguyễn Thị Minh Loan, công nhân Công ty may Đức Giang, Hà Nội.

Bà: Nguyễn Thị Huyền, sinh năm 1977. Công nhân Công ty may Đức Giang, Hà Nội. Sinh 2 trai: Thế Thịnh, Thế Lộc.

Đời thứ 14

Ngô Thế Thịnh, sinh năm 1996, con trai trưởng ông Ngô Quốc Hưng và bà Nguyễn Thị Huyền, cử nhân sư phạm, giáo viên tại Hà Nội.

Đời thứ 14

Ngô Thế Lộc, sinh năm 2001, con trai thứ hai ông Ngô Quốc Hưng và bà Nguyễn Thị Huyền, sinh viên đại học Hà Nội.

Đời thứ 12

Ngô Thế Hồng, sinh năm 1923, con trai thứ tư (út) ông Ngô Thế Hãng và bà Hạ Thị Tụ. Giáo viên trường trung học cơ sở. Mất năm 2009. An táng tại nghĩa trang Cầu Ngà, TP. Bắc Ninh.

Bà: Nguyễn Thị Tú. Sinh năm 1925, giáo viên trường trung học cơ sở. Mất năm 1991. An táng tại nghĩa trang Cầu Ngà, TP. Bắc Ninh. Sinh 4 trai, 2 gái: Thế Tuấn, Thuý Hạnh, Ánh Phúc, Thế Hanh, Thế Bình, Thế Minh.

- Ngô Thuý Hạnh sinh năm 1956, cử nhân sư phạm, giáo viên trung học phổ thông, đã nghỉ hưu. Chồng là Lê Quang Hồng sinh năm 1949, quê Lâm Thao, Lương Tài, TP. Bắc Ninh. Đại tá, nguyên chủ nhiệm khoa CNXH Khoa học trưng Sỹ quan chính trị. Ông bà sinh 2 gái: Lê Thị Thu Hà (1979), thạc sỹ, giám đốc bán hàng Công ty TNHH AAC Technologies Viet Nam, Bắc Ninh. Lê Thị Thu Thủy (1982), thạc sỹ, chuyên viên bảo hiểm TP. Hà Nội.

- Ngô Ánh Phúc sinh ngày 25-4-1957, cử nhân pháp văn, cán bộ Viện tài nguyên và môi trường biển, viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, đã nghỉ hưu. Chồng là Trần Đức Thạnh, sinh 14-01-1954, quê Hoàng Tân, Quảng Yên, Quảng Ninh. Giáo sư tiến sỹ viện tài nguyên và môi trường biển, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Ông bà sinh 2 trai: Trần Đức Tân (22-10-1980), Phó giáo sư, tiến sỹ. Trần Đức Nghĩa (14-9-1986), Tiến sỹ.

Đời thứ 13

Ngô Thế Tuấn, sinh ngày 19-4-1953, con trai trưởng ông Ngô Thế Hồng và bà Nguyễn Thị Tú. Liệt sỹ chống Mỹ, hi sinh năm 1973.

Đời thứ 13

Ngô Thế Hanh, sinh ngày 23-12-1958, con trai thứ hai ông Ngô Thế Hồng và bà Nguyễn Thị Tú. Kỹ sư chế tạo máy, đã nghỉ hưu tại TP. Bắc Ninh.

Bà: Nguyễn Thị Thanh Thuỷ. sinh 10-6-1966, quê Y-Na, Kinh Bắc, Bắc Ninh. Cử nhân sư phạm, giáo viên trung học cơ sở Ninh Xá, TP. Bắc Ninh. Sinh 2 gái: Phương Thảo, Thúy Hương.

- Ngô Phương Thảo, sinh ngày 26-12-1987, cử nhân sư phạm. Giáo viên trường tiểu học và trung học cơ sở Trần Quốc Toản, TP. Bắc Ninh.

- Ngô Thúy Hương, sinh ngày 23-8-1992, cử nhân. Nhân viên xuất nhập khẩu Công ty TNHH Tiếp vận Hoàng Kinh, TP. Bắc Ninh.

Đời thứ 13

Ngô Thế Bình, sinh ngày 01-5-1961, con trai thứ ba ông Ngô Thế Hồng và bà Nguyễn Thị Tú. Kỹ sư vô tuyến điện tử, kỹ sư tin học, thượng tá phòng tên lửa, Cục kỹ thuật - Phòng không không quân. Đã nghỉ hưu.

Bà: Trần Thị Hương, sinh 31-12-1967 tại TP. Bắc Giang, cử nhân kinh tế, kế toán công ty hóa dầu quân đội Hà Nội. Sinh 1 gái, 1 trai: Hương Ly, Thế Long.

- Ngô Hương Ly, sinh ngày 26-7-1997, cử nhân kinh tế. Nhân viên Công ty Alphasight tại Nhật Bản.

Đời thứ 14

Ngô Thế Long, sinh ngày 10-9-2002, con trai ông Ngô Thế Bình và bà Trần Thị Hương. Học sinh THPT Hà Nội.

Đời thứ 13

Ngô Thế Minh, sinh ngày 05-01-1963, con trai thứ tư (út) ông Ngô Thế Hồng và bà Nguyễn Thị Tú. Thạc sỹ kỹ thuật, phó phân viện trưởng ban cơ yếu Chính phủ.

Bà: Lê Thị Bình, sinh 06-5-1968 tại Hàng Bạc, Hà Nội. Tiến sỹ, giảng viên trường Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Sinh 2 trai: Minh Thắng, Minh Quang.

Đời thứ 14

Ngô Minh Thắng, sinh ngày 05-02-1993, con trai trưởng ông Ngô Thế Minh và bà Lê Thanh Bình. Thạc sỹ kỹ thuật.

Đời thứ 14

Ngô Minh Quang, sinh ngày 20-7-1998, con trai thứ hai ông Ngô Thế Minh và bà Lê Thanh Bình. Sinh viên trường ĐH Thương Mại Hà Nội.

Đời thứ 9

Ngô Thế Sáng (còn gọi là Bá Hai), thuỵ Thuần Lãng, con trai thứ hai ông Ngô Thế Lương và bà Hạ Thị Nhĩ. Ông được thưởng Cửu phẩm Bá hộ. Ngày giỗ 21-3. Mộ táng tại Bãi Chùa, nay không còn.

Bà: Trần Thị Tung, hiệu Diệu Hoành, là chị cả mẹ ông Hạ Bá Cang. Mộ táng tại Phù Lãng, Huyện Quế Dương, nay không còn. Sinh 2 trai, 5 gái: Thị Tấu, Trọng Túc, Thị Sắt, Thị Đanh, Thị Tỉn, Thế Đĩnh, Thị Ngọt.

- Ngô Thị Tấu, chồng là Đỗ Văn Toan. Sinh 4 trai, 2 gái: Đỗ Giáp, Đỗ Tuân, Đỗ Bẩy, Đỗ Tám, Đỗ Thị Liên, Đỗ Thị Sức.

- Ngô Thị Sắt, chồng là Trương Trọng Hới. Sinh 3 gái, 1 trai: bà Ngói, Ông Gạch, bà Ty Mân, bà Đoàn.

- Ngô Thị Đanh, chồng là Trương Ngọc Nghệ. Sinh 1 gái, 1 trai: bà Son, ông Năm Chè.

- Ngô Thị Tỉn, chồng là Vũ Quang Sáng. Sinh 5 trai: Vũ Quang Tăng (Cai Lui), Vũ Quang Tằng, Vũ Quang Đãng, Vũ Quang Hữu, Vũ Quang Sáu.

- Ngô Thị Ngọt, chồng là Nguyễn Văn Phác (Hàn Phác). Sinh 1 gái: Nguyễn Thị Thảo.

Đời thứ 10

Ngô Trọng Túc, thụy Phúc Nghiêm, sinh năm 1872, là con trai trưởng ông Ngô Thế Sáng và bà Trần Thị Tung. Mất ngày 06-9 năm Canh Thìn (06-10-1940), thọ 69 tuổi. Mộ táng tại Đồng Bối, Đáp Cầu. Sinh thời ông làm nghề thầu khoán và được thưởng Cửu phẩm Bá hộ.

Bà: Nguyễn Thị Cảnh, hiệu Diệu Đạt, sinh năm 1871, người cùng làng, con gái ông Xã Hạp. Mất ngày 06-9 năm Tân Mão (06-10-1951), thọ 81 tuổi. Mộ táng tại Đồng Bối, Đáp Cầu. Sinh 3 gái, 4 trai: Thị Cháu, Thế Ban, Thị Mỏng, Thế Dân, Thế Vũ, Thị Sáu,  Thế Ngân.

Bà hai: Lưu Thị Luyến, hiệu Thục Hiền, quê Đông Quan, Kinh Môn, Hải Dương. Mất ngày 20-8. Mộ táng ở quê. Sinh 1 trai, 1 gái: Thế Tám, Thị Đính (Thị Chín).

- Ngô Thị Cháu (1891-1971), chồng là Vũ Đình Thích (1889-1960), con ông Vũ Đình Thông, người cùng làng. Sinh 3 gái, 1 trai: Vũ Thị Lợi (1917-1975), Vũ Đình Lộc (1920-1965, vợ Đỗ Thị Thư), Vũ Thị Luân (1925, chồng Ngô Thế Dụng), Vũ Thị Tường (1928-1958, chồng Hạ Bá Nhuận).

- Ngô Thị Mỏng, hiệu Diệu Thu. Mất ngày 17-9 năm Nhâm Thìn (04-11-1952). Bà không lấy chồng, đi tu ở chùa Gốc Khế, Nhã Nam, Bắc Giang. Mộ táng tại Nhã Nam. Bà nuôi con trai của ông Ngô Thế Tám - em trai bà mất sớm.

- Ngô Thị Sáu, chồng là Tô Cường quê Nam Định. Bà mất năm 1976. Ông mất trước năm 1945. Mộ ông bà ở Nghĩa trang thành phố Nam Định. Sinh 2 gái: Tô Thị Phấn (1933), Tô Thị Phi (1935).

- Ngô Thị Đính, còn gọi là Thị Chín (1911-1995). Chồng là Nguyễn Quốc Văn, con ông Nguyễn Văn Phụ. Người cùng làng. Bà mất ngày 15-3 năm Ất Hợi (14-4-1995). Ông mất ngày 08-9 năm Đinh Mão (30-10-1987). Mộ ông bà đều táng tại Nghĩa trang Đồng Bối, Đáp Cầu. Ông bà sinh 1 gái: Nguyễn Minh Ái (1944).

Đời thứ 11

Ngô Thế Ban, thuỵ Phúc Liên, sinh năm 1894, con trai trưởng ông Ngô Trọng Túc và bà Nguyễn Thị Cảnh. Mất ngày 05-10 năm Bính Thân (07-11-1956), thọ 63 tuổi. Mộ táng tại Đồng Bối, Đáp Cầu. Sinh thời ông làm thầu khoán cầu đường, quản lý khai thác hầm mỏ.

Bà: Hạ Thị Trung, người cùng làng. Đã ly hôn. Sinh 1 trai: Thế Phát.

Bà hai: … quê Đò Lèn,Thanh Hoá. Sinh 1 trai: Thế Đạt.

Bà ba: Nguyễn Thị Nga. Sinh ngày 26-7-1898, mất ngày 22-12 năm Quý Hợi (24-01-1984), hiệu Diệu Ngà. Mộ tại Đồng Bối, Đáp Cầu. Con gái đầu ông Nguyễn Tiến Ân và bà Đàm Thị Bách, quê Làng Nành, Vinh Hiệp, Gia Lâm. Sinh 4 trai: Thế Phùng, Thế Tải, Thế Tường, Thế Đại. Sinh thời bà bán hàng tạp hóa tại Đáp Cầu.

Đời thứ 12

Ngô Thế Phát, thuỵ Trực Giác, sinh năm 1913, con trai trưởng ông Ngô Thế Ban và bà Hạ Thị Trung. Mất ngày 22-10 năm Ất Dậu (26-11-1945), hưởng dương 33 tuổi. Mộ táng tại Đồng Bối, Đáp Cầu. Sinh thời Ông mở Xưởng gỗ ở Việt Trì.

Bà: Hồ Thị Hồi, sinh năm 1915, con ông Hồ Liên, quê Thị Cầu, Bắc Ninh. Mất ngày 27 tháng Chạp năm Canh Thìn (21-01-2001), thọ 87 tuổi. Mộ táng tại Hoa Kỳ. Sinh 1 gái, 5 trai: Thị Băng, Thế Lâm (1939, mất sớm), Thế Hùng, Thế Kiệt, Thế Tuấn (1943, mất sớm), Thế Hào.

- Ngô Thị Băng, sinh năm 1936, lấy chồng và mất tại TP. Hồ Chí Minh. Có 2 con trai đang định cư tại Mỹ.

Đời thứ 13

Ngô Thế Hùng, sinh năm 1941, con trai thứ hai ông Ngô Thế Phát và bà Hồ Thị Hồi.

Bà: Phan Thị Bê. Đã mất. Sinh 3 trai, 1 gái: Thế Việt, Thế Hưng (Anh), Thế Quốc, Thị Nam.

Gia đình hiện sinh sống ở Hoa Kỳ.

Đời thứ 13

Ngô Thế Kiệt, con trai thứ ba ông Ngô Thế Phát và bà Hồ Thị Hồi.

Bà: Đông Tiểu Niên, người gốc Hoa. Sinh 1 gái: Đông Lan.

Gia đình hiện sinh sống ở Hoa Kỳ.

Đời thứ 13

Ngô Thế Hào, sinh năm 1945, con trai út ông Ngô Thế Phát và bà Hồ Thị Hồi.

Bà Ngô Thị Cửu, quê Quảng Bình. Sinh 3 gái, 1 trai: Hoài Nam, Thị Hoàng, Hoàng Anh, Hoàng Minh.

Gia đình hiện sinh sống ở Hoa Kỳ.

Đời thứ 12

Ngô Thế Đạt, sinh năm 1929, con trai thứ hai ông Ngô Thế Ban và bà ... Ông là Liệt sĩ, hy sinh năm 1950 trong Kháng chiến chống Pháp. Chưa có vợ con.

Đời thứ 12

Ngô Thế Phùng, sinh ngày 18-11-1932, con trai thứ ba ông Ngô Thế Ban và bà Nguyễn Thị Nga. Ông là Kỹ sư chế tạo máy. Ông từng là công nhân quân giới trong kháng chiến chống Pháp, đội trưởng đội cải cách ruộng đất. Tốt nghiệp Đại học Bách Khoa, khoa chế tạo máy năm 1962 và là giảng viên của trường. Sau ba năm bổ túc tại Liên Xô (cũ), ông công tác tại Viện thiết kế máy, Bộ công nghiệp nặng, Phó giám đốc nhà máy động cơ điện Hung-ga-ri Đông Anh. Nghỉ hưu năm 1984. Mất ngày 09-4 năm Nhâm Dần (09-5-2022). Mộ tại Nghĩa trang Đồng Bối, Đáp Cầu.

Bà: Hạ Thị Mười, sinh ngày 08-3-1934, con ông Hạ Bá Thắng, người cùng làng. Cựu nhân viên cửa hàng bách hóa Bắc Ninh. Nghỉ hưu năm 1984. Sinh 4 trai, 1 gái: Thế Phụng, Thế Lân, Thế Long, Thế Dũng, Thuỳ Linh (1978). Mất ngày 08-7 năm Nhâm Dần (05-8-2022), mộ táng cạnh mộ ông Phùng.

- Ngô Thuỳ Linh, sinh năm 1978, cử nhân Sư phạm Ngoai ngữ (tiếng Anh). Chồng là Đào Anh Dũng, sinh năm 1977. Cử nhân kinh tế, quê Bắc Ninh. Sinh 1 trai 1 gái: Đào Minh Trí (06-9-2005), Đào Minh Tuệ (24-11-2011).

Đời thứ 13

Ngô Thế Phụng, sinh năm 1957, con trai trưởng ông Ngô Thế Phùng và bà Hạ Thị Mười. Đại úy bộ đội đặc công. Thương binh hạng 1-4. Mất năm 2010, mộ tại nghĩa trang Đồng Bối, Đáp Cầu.  

Bà: Trần Thuý Hạnh, sinh năm 1962, con ông Trần Văn Địch quê Hưng Yên và bà Vũ Thị Kim Dung, quê Thị Cầu, Bắc Ninh. Cử nhân sư phạm. Sinh 1 trai: Thế Hưng (1991).

Đời thứ 14

Ngô Thế Hưng, con trai ông Ngô Thế Phụng và bà Trần Thúy Hạnh. Sinh năm 1991. Kỹ sư cơ khí, giáo viên trường Cao đẳng Cơ điện Hà Nội.

Bà: Nguyễn Thị Thường. Sinh năm 1992, con ông Nguyễn Đình Chu và bà Nguyễn Thị Thoa quê Thuận Thành, Bắc Ninh. Sinh: Thế Đăng Khôi (7-2020).

Đời thứ 13 

Ngô Thế Lân, sinh năm 1959, con trai thứ hai ông Ngô Thế Phùng và bà Hạ Thị Mười.

Bà: Vũ Hải Yến, sinh năm 1962, con liệt sỹ Vũ Ngọc, quê Bắc Ninh. Sinh 1 gái: Phương Thảo (1988).

- Ngô Phương Thảo, sinh năm 1988, cử nhân kinh tế, công tác tại Hà Nội.

Đời thứ 13

Ngô Thế Long, sinh năm 1962, con trai thứ ba ông Ngô Thế Phùng và bà Hạ Thị Mười. Ông là tài xế xe tải, đã nghỉ hưu.

Bà: Nguyễn Thị Hồng, sinh năm 1982. Con ông Nguyễn Đức Xuân và bà Nguyễn Thị Huệ, quê Hạp Lĩnh, Bắc Ninh. Sinh 2 gái: Ngô Hồng Ngọc (16-10-2006), Ngô Hồng Anh (25-11-2010).

Đời thứ 13

Ngô Thế Dũng, sinh năm 1964, con trai thứ tư ông Ngô Thế Phùng và bà Hạ Thị Mười.
Bà: Nguyễn Thị Lan. Sinh năm 1973, con ông Nguyễn Như Trọng và bà Nguyễn Thị Tạo, quê Đáp Cầu. Sinh 1 gái: Tuệ San (2019).

Đời thứ 12

Ngô Thế Tải, thuỵ Phúc Hải, sinh năm 1935, mất ngày 17-3 Canh Thìn (21-4-2000), thọ 66 tuổi, mộ tại Đồng Bối, Đáp Cầu. Con trai thứ tư ông Ngô Thế Ban và bà Nguyễn Thị Nga. Ông là thương binh tại mặt trận Điện Biên Phủ, là kỹ sư nông nghiệp. Sinh thời là Trưởng phòng Nông nghiệp Thị xã Bắc Ninh.

Bà: Trần Thị Chi, sinh năm 1938, quê Chợ Trục, Yên Phong, Bắc Ninh. Sinh 2 trai, 2 gái: Sơn Hà (1963), Hải Yến (1968), Quốc Nhị (1970), Hoàng Anh (1974).

- Ngô Hải Yến, kỹ sư hoá thực phẩm. Xuất gia tu tại chùa Đại Tráng, Bắc Ninh.

- Ngô Hoàng Anh, cử nhân ngoại ngữ tiếng Anh, giáo viên Trường Đại học Nông nghiệp Bắc Giang. Chồng là Đỗ Minh Hùng, thiếu tá bộ đội PKKQ đã nghỉ hưu. Sinh 2 gái: Đỗ Hoàng Minh Phượng (1999), Đỗ Hoàng Minh Ngọc (2007).

Đời thứ 13

Ngô Sơn Hà, sinh năm 1963, mất ngày 09-11 Nhâm Dần (02-12-2022). Con trai trưởng ông Ngô Thế Tải và bà Trần Thị Chi. Không vợ con.

Đời thứ 13

Ngô Quốc Nhi, sinh năm 1970. Con trai thứ hai ông Ngô Thế Tải và bà Trần Thị Chi. Giám đốc đại lý sơn tại Bắc Ninh.

Bà: Nguyễn Thị Bắc. Sinh năm 1980, con ông Cường, bà Bản quê Thuận Thành, Bắc Ninh. Y tá bệnh viện Tâm thần Bắc Ninh. Sinh 2 gái, 1 trai: Thiên Hoa (2004), Thế Hoàng Giang (2009), Ngọc Lan (2014).

Đời thứ 14

Ngô Thế Hoàng Giang, sinh năm 2009. Con trai ông Ngô Quốc Nhi và bà Nguyễn Thị Bắc. Học sinh trường THPT Thị Cầu, Bắc Ninh.

Đời thứ 12

Ngô Thế Tương (còn gọi là Thế Tường), sinh năm 1938. Con trai thứ năm ông Ngô Thế Ban và bà Nguyễn Thị Nga. Ông là Kỹ sư cơ giới công nghiệp rừng. Giảng viên trường đại học nông nghiệp, đại học lâm nghiệp, chuyên viên cao cấp bộ nông nghiệp phát triển nông thôn. Đã nghỉ hưu năm 2001.

Bà: Nguyễn Thị Huệ Ngân, sinh năm 1939, con ông Nguyễn Văn Cường và bà Nguyễn Thị Mỹ. Quê ở Bối Khe, Thanh Oai, Hà Tây, Hà Nội. Bà là Kỹ sư điện khí hoá xí nghiệp, trưởng phòng Viện thiết kế Bộ CNN. Đã nghỉ hưu năm 1989. Sinh 3 trai: Thế Quân, Thế Quyền, Thế Hiếu.

Đời thứ 13

Ngô Thế Quân, sinh ngày 18-01-1965. Con trai trưởng ông Ngô Thế Tường và bà Nguyễn Thị Huệ Ngân. Ông tốt nghiệp Học viện kỹ thuật quân sự, từng là đại đội phó bộ đội xe tăng mặt trận 479 Xiêm Riệp, Cam Phu Chia. Hiện là thạc sỹ, phó hiệu trưởng Trường cao đẳng cơ điện Hà Nội.

Bà: Trần Thị Nhung, sinh năm 1973, thạc sỹ ngoại ngữ tiếng Anh. Con ông Trần Văn Tài, quê Vân Đình, Ứng Hòa, Hà Nội. Cán bộ công ty Vigracera. Sinh 2 gái: Khánh Quỳnh (1997) cử nhân luật, Quỳnh Phương (2007).

- Ngô Thị Khánh Quỳnh, sinh ngày 15-11-1997. Cử nhân luật, công tác tại Công ty tài chính TNHH SHB Hà Nội. Chồng là Lưu Mạnh Dũng, sinh ngày 29-6-1996, con ông Lưu Văn Hoàn, quê Kim Thành, Hải Dương. Cử nhân KTTC làm việc tại Công ty tài chính MB SHINSEI Hà Nội.

- Ngô Quỳnh Phương, sinh ngày 14-7-2007. Học sinh trường THPT Lê Quý Đôn, Hà Đông, Hà Nội.

Đời thứ 13

Ngô Thế Quyền, sinh ngày 16-4-1968, con trai thứ hai ông Ngô Thế Tường và bà Nguyễn Thị Huệ Ngân. Ông tốt nghiệp Đại học an ninh, ngành Phòng cháy chữa cháy. Thượng Tá, Phó giám đốc Công ty tháng 8, Sở Công An Hà Nội.

Bà: Bùi Thị Kim Thanh, sinh 1969. Con ông Bùi Văn Mẫu, quê Quảng Ngãi.  Đã ly hôn. Sinh 1 gái, 1 trai: Ngọc Quyên (1992) cử nhân kinh tế, Thế Thành (1999) cử nhân Công nghệ thông tin.

Bà hai: Trần Thị Hiền, sinh 1974. Phóng viên truyền thông Hà Nội.

Đời thứ 14

Ngô Thế Thành, sinh ngày 06-11-1999. Con trai ông Ngô Thế Quyền và bà Bùi Thị Kim Thanh. Kỹ sư CNTT, làm việc tại Công ty Gearinc Hà Nội.

Đời thứ 13

Ngô Thế Hiếu, sinh ngày 12-4-1977, con trai thứ ba ông Ngô Thế Tường và bà Nguyễn Thị Huệ Ngân. Ông là cử nhân kinh tế ngoại thương. Từng là Giám đốc Kinh doanh công ty chứng khoán VN Directe Hà Nội. Hiện công tác tại Công ty Bave Hà Nội.

Bà: Nguyễn Thanh Mai, sinh 1978. Đã ly hôn. Sinh 1 trai: Thế Sơn (2008).
Bà hai: Đặng My, sinh 1991. Con ông Đặng Hoàng, quê Ứng Hòa, Hà Nội. Giám đốc tài chính công ty VN Directe.

Đời thứ 14

Ngô Thế Sơn, sinh ngày 28-7-2008. Con trai ông Ngô Thế Hiếu và bà Nguyễn Thanh Mai. Hiện đang học trung học tại Luân Đôn, Vương quốc Anh.

Đời thứ 12

Ngô Thế Đại, sinh năm 1941, con trai thứ sáu (út) ông Ngô Thế Ban và bà Nguyễn Thị Nga. Ông là kỹ sư cầu đường, nguyên Trưởng phòng thiết kế cầu Thăng Long Hà Nội, phụ trách công nhân Việt Nam lao động tại Ukraina. Nghỉ hưu năm 1995 tại Hà Nội.

Bà: Bùi Như Minh, sinh năm 1949. Mất ngày 28 tháng Giêng năm Ất Hợi (27-02-1995). Mộ táng tại Đồng Bối, Đáp Cầu. Sinh 1 trai: Thế Hoàng.

Đời thứ 13

Ngô Thế Hoàng, sinh năm 1974. Con trai duy nhất ông Ngô Thế Đại và bà Bùi Như Minh. Thạc sỹ kinh tế, Giám đốc Công ty thiết bị truyền thanh truyền hình Hà Nội.

Bà: Nguyễn Thị Thu Hường, sinh năm 1974, quê Chí Linh, Hải Dương. Cử nhân luật. Chi cục phó Chi cục Hải quan Hà Nội.  Sinh 2 trai: Thế Anh Khoa (1999). Thế Bảo Khanh (2007).

Đời thứ 14

Ngô Thế Anh Khoa, sinh năm 1999. Con trai trưởng ông Ngô Thế Hoàng và bà Nguyễn Thị Thu Hường. Kỹ sư CNTT tại Hòa Kỳ. Công tác tại Hà Nội.

Đời thứ 14

Ngô Thế Bảo Khanh, sinh năm 2007. Con trai thứ hai ông Ngô Thế Hoàng và bà Nguyễn Thị Thu Hường. Học sinh THPT tại Hà Nội.

Đời thứ 11

Ngô Thế Dân, thuỵ Thần Cẩm, sinh năm 1905, con trai thứ hai ông Ngô Trọng Túc và bà Nguyễn Thị Cảnh. Mất ngày 08-3 năm Ất Dậu (19-4-1945). Hưởng dương 41 tuổi. Sinh thời, Ông tốt nghiệp Trường Kỹ nghệ thực hành Hải Phòng.

Bà: Nguyễn Thị Loan, hiệu Diệu Phượng, sinh năm 1910. Mất năm 1996, thọ 87 tuổi. Mộ ông bà tại Nghĩa trang Đồng Bối, Đáp Cầu. Sinh thời, bà là giáo viên Trường tiểu học Thị Cầu và Đáp Cầu. Sinh 1 gái: Thị Định.

- Ngô Thị Định, sinh năm 1935. Là giáo viên tiểu học Đáp Cầu, đã nghỉ hưu. Chồng là Hạ Bá Tám, con ông Hạ Bá Thắng người cùng làng. Sinh 3 trai (đều mất), 1 gái: Hạ Thị Tâm là giáo viên và buôn bán tại Đáp Cầu.

Đời thứ 11

Ngô Thế Vũ, thuỵ Thuần Quang, bị bom của Pháp ở Tuyên Quang mất ngày 07-10 năm Canh Dần (16-11-1950). Con trai thứ ba ông Ngô Trọng Túc và bà Nguyễn Thị Cảnh. Sinh thời ông làm nghề khai thác lâm sản Bắc mục, Tuyên Quang.

Bà: Vũ Thị Tý, hiệu Diệu Ty, con ông Vũ Văn Hộ người cùng làng. Mất ngày 19-11 năm Bính Dần (20-12-1996). Mộ ông bà mai táng tại Đồng Bối, Đáp Cầu. Sinh 4 gái, 1 trai: Thị Vân, Thị Vi, Thị Quy, Thị Tứ, Thế Phách.

- Ngô Thị Vân, sinh năm 1931. Mất 01-10 năm Mậu Thân (20-11-1968). Chồng là Ngô Văn Thuận, quê Bạc Liêu. Sinh 1 trai: Ngô Văn Nam (1951).

- Ngô Thị Vi, sinh năm 1933. Chồng là Lâm Thân, con ông Lâm Trân, quê Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội. Sinh 4 trai, 3 gái: Lâm Thịnh (1958-đã mất), Lâm Hưng, Lâm Phúc, Lâm Thọ, Thị Quỳ, Thị Quyến, Thị Quyên. Gia đình định cư tại Bắc Giang.

- Ngô Thị Quy, sinh năm 1936. Chồng là Hoàng Kim Bình, con ông Hoàng Kim Be, cùng quê. Sinh 4 trai, 5 gái: Hoàng Kim Cường (liệt sỹ chống Mỹ), Hoàng Kim Cương (lái xe), Hoàng Kim Bốn (công nhân Nhà máy kính Đáp Cầu), Hoàng Kim Đôn (nhân viên công ty Vigracera); Hoàng Thị Thu, Hoàng Thị Phương, Hoàng Thị Phượng, Hoàng Thị Hương (sản xuất đậu phụ tại nhà), Hoàng Thị  Đông (giáo viên ở Tuyên Quang). Ông bà đều đã mất, mộ tại nghĩa trang Đồng Bối, Đáp Cầu.

- Ngô Thị Tứ, sinh năm 1938. Chồng là Nguyễn Độ (sinh năm 1931) quê Quảng Trị, mất năm 1979. Sinh 4 trai, 1 gái: Nguyễn Quốc Tuấn (mất năm 2005), Nguyễn Tuấn Hùng (1961) – lái xe, Nguyễn Hùng Anh (1966) – lái xe, Nguyễn Việt Dung (1968) – lái xe, Nguyễn Thị Kim Dung (1971) – công nhân nhà máy giầy Thượng Đình, đã nghỉ hưu.

Bà hai: Đinh Thị Nớp, quê Bắc Mục, Tuyên Quang. Đã mất. Sinh 1 gái: Thị Tuyên.

- Ngô Thị Tuyên, sinh năm 1944, mất ngày 17-5 năm Ất Mùi (02-7-2015), kỹ sư vô tuyến điện. Phó Giáo sư, cán bộ giảng dạy Trường Đại học Bách khoa, Hà Nội. Chồng là Phương Xuân Nhàn (sinh năm 1930), quê Lục Nam, Bắc Giang. Sinh 3 trai: Phương Xuân Hải, Phương Xuân Thanh, Phương Xuân Quang.

Đời thứ 12

Ngô Thế Phách, sinh năm 1945, mất ngày 02-10 năm Giáp Tý (25-10-1984), hưởng dương 40 tuổi, mộ tại nghĩa trang Đồng Bối, Đáp Cầu. Con trai duy nhất ông Ngô Thế Vũ và bà Vũ Thị Tý. Ông đã tốt nghiệp Đại học tổng hợp Văn và công tác tại Toà soạn Báo Quân đội nhân dân.

Bà: Phan Thị Hậu, sinh năm 1950, quê Tây Hồ, Hà Nội. Sinh 1 trai: Thế Minh.

Đời thứ 13

Ngô Thế Minh, sinh năm 1977, cử nhân luật, con trai duy nhất ông Ngô Thế Phách và bà Phan Thị Hậu.

Đời thứ 11

Ngô Thế Ngân, thuỵ Phúc Minh. Mất ngày 15-10 năm Quý Sửu (09-11-1973). Con trai thứ tư ông Ngô Trọng Túc và bà Nguyễn Thị Cảnh.

Bà: Nguyễn Thị Bông, hiệu Diệu Sợi, sinh năm 1910, con cụ Lý quên làng Giới Tế, Phú Lâm, Tiên Du, Bắc Ninh. Mất ngày 23-9 năm Quý Mùi (18-10-2003), thọ 94 tuổi. Mộ Ông bà đều táng tại nghĩa trang Đồng Bối, Đáp Cầu. Sinh 5 gái, 1 trai: Thị Kim, Thị Liên, Thị Khánh, Thị Thành, Thị Tuyết, Thế Tiến.

Ông Bà có một con nuôi: Thế Tường, người làng Giới Tế, Yên Phong, Bắc Ninh.

- Ngô Thị Kim, sinh năm 1936. Chồng là Nguyễn Xuân Thủy, đại úy quân đội (đã mất). Sinh: Nguyễn Kim Ngọc (1960), có con là Nguyễn Văn Tùng. Nguyễn Quang Sơn (1962). Nguyễn Xuân Hải (1965), nhân viên Sở điện lực Hà Nội. Nguyễn Tuấn Anh (1970), cán bộ Công ty giấy Hà Nội.

- Ngô Thị Liên, sinh năm 1938. Chồng là Phạm Văn Phúc, thượng tá quân đội (đã mất). Sinh 2 gái, 2 trai: Phạm Kim Loam (1961), Phạm Mai Phương (1963), Phạm Hồng Đức (1968), Phạm Hồng Thắng (1976). Gia đình định cư ở TP. Hồ Chí Minh.

- Ngô Thị Khánh, sinh năm 1940. Không lấy chồng, đã mất. Mộ tại nghĩa trang Đồng Bối, Đáp Cầu.

- Ngô Thị Thành, sinh năm 1948. Chồng là Nguyễn Văn Hạ (sinh năm 1943) quê làng Giới Tế, Phú Lâm, Tiên Du, Bắc Ninh. Sinh 1 trai, 2 gái: Nguyễn Quang Hưng (1973), kỹ sư điện. Nguyễn Minh Huyền (1976), giảng viên trường đại học Bách Khoa Hà Nội. Nguyễn Thúy Hạnh (1981), phiên dịch viên tại FPT. Ông bà đã nghỉ hưu tại Hà Nội.

- Ngô Ánh Tuyết, sinh năm 1953. Chồng là Nguyễn Thế Hùng (1949), quê Đình Bảng, Bắc Ninh. Nghỉ hưu tại Hà Nội. Sinh 2 trai: Nguyễn Thế Dũng (1977), đã mất. Nguyễn Thế Linh (1979).

Đời thứ 12

Ngô Thế Tiến, sinh năm 1943, mất năm 1946. Con trai ông Ngô Thế Ngân và bà Nguyễn Thị Bông.

Đời thứ 11

Ngô Thế Tám, thuỵ Trực Tâm, sinh năm 1915, con trai thứ năm ông Ngô Trọng Túc và bà Lưu Thị Luyến. Mất ngày 18-6 năm Mậu Dần (16-7-1938). Hưởng dương 24 tuổi. Sinh thời Ông làm công chức ngành hoả xa.

Bà: Nguyễn Thị Khuê, hiệu Diệu Phòng. Ông mất sớm, bà ở vậy không tái giá, không có con. Đã mất tại Bắc Giang.

Ông có con riêng là: Thế Tính.

Đời thứ 12

Ngô Thế Tính, sinh năm 1936, con riêng duy nhất của ông Ngô Thế Tám. Mất ngày 22-02 năm Kỷ Mão (08-4-1999), thọ 64 tuổi.

Bà Dương Thị Bột, sinh năm 1935, con ông Thụy quê Dương Lâm, Nhã Nam, Bắc Giang. Sinh 4 trai, 3 gái: Thế Quỳnh, Thế Sơn, Thế Thuỷ, Thị Ngân, Thế Hà, Thị Bắc, Thị Nam.

- Ngô Thị Ngân, sinh năm 1965, chồng là Dương Văn Khải (mất năm 2002). Sinh 2 gái: Dương Thu Hương, Dương Thu Khảo. Đã tái giá với ông Liệu, quê Bắc Giang.

- Ngô Thị Bắc, sinh năm 1970. Chồng là Vũ Quốc Lịch, sinh năm 1969, con ông Hội, quê Bắc Giang. Sinh 3 trai: Vũ Quốc Huy, Vũ Quốc Tùng, Vũ Quốc Dương.

- Ngô Thị Nam, sinh năm 1972. Chồng là Chúc Văn Thắng, con ông Chúc Văn Lăng, quê Đại Hóa, Bắc Giang. Sinh 1 trai: Chúc Văn Nghĩa. Cháu nội là Chúc Phú Hưng. Buôn bán tại Thái Nguyên.

Đời thứ 13

Ngô Thế Quỳnh, sinh năm 1958, con trai trưởng ông Ngô Thế Tính và bà Dương Thị Bột. Ông tốt nghiệp Đại học An Ninh, là Trung Tá Bộ đội biên phòng Lạng Sơn, đã nghỉ hưu.

Bà: Dương Thị Hảo, sinh năm 1968. Con ông Tránh, quê Đại Hóa, Bắc Giang. Công tác tại ban biên tập báo Lạng Sơn. Sinh 1 trai, 1 gái: Hồng Quân (1990), Hồng Nhung (1996).

- Ngô Hồng Nhung, sinh năm 1996. Thạc sỹ luật, công tác tại Đoàn luật sư Hà Nội.

Đời thứ 14

Ngô Hồng Quân, con trai trưởng ông Ngô Thế Quỳnh và bà Dương Thị Hảo, sinh năm 1990.

Bà: Hồ Thị Ngọc Hương, sinh 1 trai: An Bình (2018).

Đời thứ 13

Ngô Thế Sơn, sinh năm 1960, con trai thứ hai ông Ngô Thế Tính và bà Dương Thị Bột.

: Lê Thị Huệ, sinh năm 1963, con ông Thế, quê Nhã Nam. Sinh 2 gái: Thị Huệ (1991), Thị Trang (1997).

Đời thứ 13

Ngô Thế Thuỷ, sinh năm 1963, con trai thứ ba ông Ngô Thế Tính và bà Dương Thị Bột.

Bà: Đỗ Thị Ngà, sinh năm 1969, con ông Mùi, quê Quang Tiến, Nhã Nam. Sinh 2 gái: Thị Giang (1993), Thị Linh (1998).

Đời thứ 13

Ngô Thế Hà, sinh năm 1968, con trai thứ tư ông Ngô Thế Tính và bà Dương Thị Bột.

Bà: Đặng Thị Lan, sinh 1970. Sinh 1 gái, 1 trai: Thị Hạnh (1995), Thế Long (2000).

Vợ chồng định cư tại Ba Lan.

Đời thứ 10

Ngô Thế Đĩnh (ông Hai Đĩnh), con trai thứ hai ông Ngô Thế Sáng và bà Trần Thị Tung.

Bà: Trần Thị Được, người làng Phù Lãng. Sinh 5 trai, 2 gái, Thế Dượng, Thế Kiền, Thế Khuê, Thế Khổn, Thế Năm, Thị Cầm, Thị Kỳ.

Đời thứ 11

Ngô Thế Dượng, con trai trưởng ông Ngô Thế Đĩnh và bà Trần Thị Được. Ông từng là Tự vệ Kháng chiến ở Đáp Cầu, sau công tác tại Huyện đội Quế Dương. Ông bị Pháp bắt và hy sinh khi giết lính dẫn giải trên đường đi làm phu.

Bà: Nguyễn Thị Trừ, người làng Phù Lãng. Sinh 3 trai, 3 gái: Thế Phương, Thế Lãng, Thế Phòng, Thị Phi, Thị Phô, Thị Bình.

Đời thứ 12

Ngô Thế Phương, tiến sỹ y khoa, con trai trưởng ông Ngô Thế Dượng và bà Nguyễn Thị Trừ. Năm 1945, Ông tham gia tự vệ ở Đáp Cầu, sau tham gia quân đội. Ông đã là Vụ trưởng Vụ Tổ chức Bộ Y tế.

Bà: Phạm Thị Thanh, người làng Phù Lãng. Ông bà sinh 3 gái: Thúy Lan, Thanh Nga, Thanh An.

Đời thứ 12

Ngô Thế Lãng, con trai thứ 2 ông Ngô Thế Dương và bà Nguyễn Thị Trừ.

Bà: Trịnh Thị Nga, người Thị Cầu. Sinh 3 trai, 2 gái: Thế Sơn, Thế Tùng, Thế Dương, Thị Mai, Thị Liễu.

Đời thứ 12

Ngô Thế Phòng, con trai thứ 3 ông Ngô Thế Dượng và bà Nguyễn Thị Trừ. Ông tham gia quân đội, chiến đấu ở chiến trường Miền Nam, hy sinh năm 1973. Chưa có vợ con.

Đời thứ 11

Ngô Thế Kiền, con trai thứ hai ông Ngô Thế Đĩnh và bà Trần Thị Được.

Bà: Vũ Thị Vân, người cùng làng. Sinh 4 trai: Thế Thành, Thế Sùng (Liệt sỹ), Thế Anh, Thế Diệm (chết trẻ).

Bà hai: Cao Thị Yên. Sinh 3 trai, 3 gái: Thế Dũng, Thế Ngọc, Thế Ngà,  Thị Liên,  Thị Mai, Thị Trâm.

Đời thứ 12

Ngô Thế Thành, con trai trưởng ông Ngô Thế Kiền và bà Vũ Thị Vân

Bà là : ... Nhung.

Đời thứ 12

Ngô Thế Sùng, con trai thứ hai ông Ngô Thế Kiền và bà Vũ Thị Vân.

Ông là liệt sỹ trong kháng chiến chống Pháp. Không có vợ con.

Đời thứ 12

Ngô Thế Anh, con trai thứ ba ông Ngô Thế Kiền và bà Vũ Thị Vân.

Bà: .... Sinh 1 trai, 2 gái: Thế Minh, Thị Mỹ, Thị Nhật.

Đời thứ 12

Ngô Thế Dũng, con trai thứ tư ông Ngô Thế Kiền và bà Cao Thị Yên.

Bà: .... Sinh 2 trai, 1 gái: Thế Quân, Thế Cường, Thu Trang.

Đời thứ 12

Ngô Thế Ngọc, con trai thứ năm ông Ngô Thế Kiền và bà Cao Thị Yên.

Bà: Lê Thị Hòa. Sinh 2 trai, 3 gái: Thế Quyến, Thế Việt, Thị Hân, Thị Yên, Thị Tâm.

Đời thứ 12

Ngô Thế Ngà, con trai thứ sáu ông Ngô Thế Kiền và bà Cao Thị Yên.

Bà: Trần Thị Luân. Sinh 3 trai, 1 gái: Thế Hùng, Thế Sơn, Thế Nam, Thu Hương.

Đời thứ 11

Ngô Thế Khuê, con trai thứ ba ông Ngô Thế Đĩnh và bà Trần Thị Được. Sinh thời, ông buôn bán gỗ. Trong Kháng chiến chống Pháp, ông là Huyện đội trưởng huyện Võ Giàng. Ông đã hy sinh trong một trận chống càn.

Bà: Vũ Thị Thảo, người cùng làng. Sinh 2 gái: Thị Nga, Thị Tuyết.

Bà hai: Vũ Thị Nhung, người cùng làng. Sinh 1 gái: Thị Thục.

Đời thứ 11

Ngô Thế Khổn, con trai thứ tư ông Ngô Thế Đĩnh và bà Trần Thị Được.

Bà: Vũ Thị Tý, người cùng làng. Sinh 4 trai: Thế Vĩnh, Thế Định, Thế Cát, Thế Đồng.

Đời thứ 12

Ngô Thế Vĩnh, con trai trưởng ông Ngô Thế Khổn và bà Vũ Thị Tý.

Bà: Phạm Thị Nga. Sinh 1 trai, 2 gái: Thế Tuệ, Thị Thúy, Thị Thu.

Đời thứ 12

Ngô Thế Định, con trai thứ hai ông Ngô Thế Khổn và bà Vũ Thị Tý.

Bà: Nguyễn Thị Công. Sinh 1 trai, 2 gái: Thế Sơn, Thị Hà, Thị Hiền.

Đời thứ 12

Ngô Thế Cát, con trai thứ ba ông Ngô Thế Khổn và bà Vũ Thị Tý.

Bà: Nguyễn Thị Yến. Sinh 2 gái: Thị Lan, Thị Linh.

Đời thứ 12

Ngô Thế Đồng, con trai thứ tư (út) ông Ngô Thế Khổn và bà Vũ Thị Tý.

Ông là Liệt sỹ, hy sinh trong Kháng chiến chống Pháp. Chưa có vợ con.

Đời thứ 11

Ngô Thế Năm, con trai thứ năm (út) ông Ngô Thế Đĩnh và bà Trần Thị Được. Sinh thời, ông bà buôn bán ở Nam Định, sau về buôn bán ở Bắc Ninh.

Bà: Vũ Thị Bảo, người cùng làng. Sinh 5 trai, 2 gái: Thế Long, Thế Quang, Thế Tiếp, Thế Tế, Thế Thắng, Thị Từ, Thị Thư.

Đời thứ 12

Ngô Thế Long, kỹ sư xây dựng, con trai trưởng ông Ngô Thế Năm và bà Vũ Thị Bảo.

Bà: Nhữ Thị Xuân. Sinh 1 trai, 1 gái: Thế Lân, Thị Lan.

Đời thứ 12

Ngô Thế Quang, tiến sỹ, con trai thứ hai ông Ngô Thế Năm và bà Vũ Thị Bảo. Ông là Giảng viên Đại học thương nghiệp.

Bà: Lê Thị Lương. Sinh 2 trai, 1 gái: Thế Quỳnh, Thế Quân, Thị Chi.

Đời thứ 12

Ngô Thế Tiếp, kỹ sư xây dựng, con trai thứ ba ông Ngô Thế Năm và bà Vũ Thị Bảo. Ông công tác tại Cục Đường biển.

Bà: Phạm Thị Lương, giáo viên Trường PTCS Ngô Quyền, Hải Phòng. Sinh 1 trai, 1 gái: Thế Phong, Thị Thu.

Đời thứ 12

Ngô Thế Tế, con trai thứ tư  ông Ngô Thế Năm và bà Vũ Thị Bảo.

Bà: Nguyễn Thị Hiền. Sinh 2 trai, 1 gái: Thế Hải, Thế Hưng, Thị Hương.

Đời thứ 12

Ngô Thế Thắng, kỹ sư, con trai thứ năm (út) ông Ngô Thế Năm và bà Vũ Thị Bảo. Ông công tác tại Nhà máy kính Đáp Cầu.

Bà: Chu Thị Mỹ. Sinh 1 trai: Thế Hiếu.

Đời thứ 9

Ngô Thế Khoán, còn gọi là Ba Đưởng, tự Phụ Xương Tòng, con trai thứ ba ông Ngô Thế Lương và bà Hạ Thị Nhĩ. Mất ngày 20-4 năm Giáp Tý (23-5-1924). Sinh thời ông học chữ nho và bốc thuốc. Sau này ông làm thày dạy chữ nho và bốc thuốc.

Bà: Vũ Thị Tuyển, hiệu Diệu Tuyên, không có con. Mất ngày 30 tháng Giêng năm Nhân Dần (09-3-1902).

Bà hai: Trương Thị Chanh, hiệu Diệu Chính. Mất ngày 18-9 năm Nhâm Tuất (06-11-1922). Sinh 1 trai: Thế Đưởng.

Đời thứ 10

Ông Ngô Thế Đưởng, thuỵ Tuần Lương, con độc nhất ông Ngô Thế Khoán và bà Trương Thị Chanh. Mất ngày 08-3 năm Mậu Dần (08-4-1938).

Bà: Trương Thị Đúc, hiệu Diệu Minh. Mất ngày 05 tháng Giêng năm Bính Tý (28-01-1936). Sinh 5 trai, 4 gái:  Thế Biều, Thế Nhượng, Thế Nhiếp,  Thế Khoản, Thế Diệp, Thị Chử, Thị Dính, Thị Niêm, Thị Sáu (Síu).

Đời thứ 11

Ngô Thế Biều, con trai trưởng ông Ngô Thế Đưởng và bà Trương Thị Đúc. Mất ngày 19-5 năm Kỷ Mão (05-7-1939).

Bà: Hoàng Thị Phàn, sinh năm 1897, người cùng làng. Mất năm Giáp Tý (1984). Sinh 5 trai: Thế Cẩm, Thế Ý, Thế Xứng, Thế Tương, Thế Lập.

Đời thứ 12

Ngô Thế Cẩm, sinh năm 1922, con trai trưởng ông Ngô Thế Biều và bà Hoàng Thị Phàn. Ông làm nghề thợ may tại Hải Phòng

Bà: Hoàng Thị Dự, sinh năm 1926, công nhân Nhà máy đóng tầu Tam Bạc, đã nghỉ hưu. Sinh 3 trai, 2 gái: Thế Hồng, Thế Phòng, Thế Dương (chết trẻ), Thị Hải (1956)Thị Huệ (1960).

Đời thứ 13

Ngô Thế Hồng, sinh năm 1950, con trai trưởng ông Ngô Thế Cẩm và bà Hoàng Thị Dự.

Bà: Nguyễn Thị Hiền, sinh năm 1950, quê An Lão, Hải Phòng. Sinh 2 trai, 1 gái: Thế Quang (1972), Thị Thu (1976), Thế Quân (1982).

Đời thứ 13

Ngô Thế Phòng, sinh ngày 27-11-1959, con trai thứ hai ông Ngô Thế Cẩm và bà Hoàng Thị Dự.

Bà: Đào Thị Huyền, sinh ngày 10-10-1964, công nhân Da giầy Hải Phòng. Sinh 1 gái: Thị Trang Linh (14-9-1991).

- Ngô Thị Trang Linh: Nhân viên ZTO Nguyễn Trãi, quận Ngô Quyền, Hải Phòng.

Đời thứ 12

Ngô Thế Ý, con trai thứ hai ông Ngô Thế Biều và bà Hoàng Thị Phàn. Ông là Liệt sỹ chống Pháp, hy sinh ngày 01-10 năm Canh Dần (1950). Không vợ con.

Đời thứ 12

Ngô Thế Xứng, con trai thứ ba ông Ngô Thế Biều và bà Hoàng Thị Phàn.

Bà: Nguyễn Thị Thuần. Ông bà đều là công nhân Nhà máy dệt Nam Đinh. Sinh 3 gái: Thị Hòa, Thị Phương, Thị Hiền.

Đời thứ 12

Ngô Thế Tương, con trai thứ tư ông Ngô Thế Biều và bà Hoàng Thị Phàn. Ông là công nhân Nhà máy xay Đáp Cầu, đã nghỉ hưu.

Bà: Hoàng Thị Sâm, người cùng làng. Sinh 4 trai, 4 gái: Thế Lai, Thế Dũng, Thế Bình, Thế Minh, Thị Dung, Thị Xuân.

Đời thứ 13

Ngô Thế Lai, con trai trưởng ông Ngô Thế Tương và bà Hoàng Thị Sâm.

Bà: Hoàng Thị Mai. Sinh 1 trai, 1 gái: Thế Duy, Thị Thanh.

Đời thứ 13

Ngô Thế Dũng, con trai thứ hai ông Ngô Thế Tương và bà Hoàng Thị Sâm.

Bà: Đinh Thị Oanh. Sinh 2 trai: Thế Tuấn, Thế Thanh.

Đời thứ 13

Ngô Thế Bình, con trai thứ ba ông Ngô Thế Tương và bà Hoàng Thị Sâm.

Đời thứ 13

Ngô Thế Minh, con trai thứ tư ông Ngô Thế Tương và bà Hoàng Thị Sâm.

Đời thứ 12

Ngô Thế Lập, sinh năm 1943, con trai thứ năm (út) ông Ngô Thế Biều và bà Hoàng Thị Phàn. Ông là công nhân Nhà máy điện Cao Ngạn, Thái Nguyên. Năm 1965 đi bộ đội và hy sinh tại chiến trường miền Nam.

Đời thứ 11

Ngô Thế Nhượng, sinh năm 1900, con trai thứ hai ông Ngô Thế Đưởng và bà Trương Thị Đúc. Mất năm Quý Hợi (1983). Sinh thời, ông là công nhân Nhà máy Xi măng Hải Phòng.

Bà: Nghiêm Thị Bốn, sinh năm 1901, quê Tam Sơn, Từ Sơn, Bắc Ninh.  Mất năm Quý Mùi (2003), thọ 103 tuổi. Sinh 3 trai, 3 gái: Thế Bách, Thế Vạn, Thế Đại, Thị Nhàn, Thị Thinh, Thị Thịnh.

- Ngô Thị Nhàn, sinh năm 1938, chồng là …. Sinh 1 trai, 3 gái: Nguyễn Trọng Quang (1958), Nguyễn Minh Lý (1962), Nguyễn Minh Tuyết (1965), Nguyễn Minh Nguyệt (1971).

- Ngô Thị Thịnh, sinh năm 1942, chồng là Nguyễn Đình Dũng. Sinh 3 gái, 1 trai: Nguyễn Ngô Dung (1965)Nguyễn Ái Hoà (1968), Nguyễn Mạnh Hùng (1970), Nguyễn Hoà Hợp (1973).

Đời thứ 12 

Ngô Thế Bách, sinh năm 1934, con trai trưởng ông Ngô Thế Nhượng và bà Nghiêm Thị Bốn. Ông là công nhân Nhà máy xi măng Hải Phòng đã nghỉ hưu.

Bà: Nguyễn Thị Hạnh, sinh năm 1934, quê làng Cổ Nhuế, Từ Liêm, Hà Nội, công nhân Nhà máy len Hải Phòng, đã nghỉ hưu. Sinh 2 trai, 1 gái: Thế Diệp, Mai Lan, Thế Minh.

- Ngô Mai Lan, sinh năm 1971. Chồng là Nguyễn Đình Hiện, sinh năm 1964. Sinh 2 con: Nguyễn Ngọc Hà (1998), Nguyễn Ngọc Trâm (2001).

Đời thứ 13 

Ngô Thế Diệp, sinh năm 1960, con trai trưởng ông Ngô Thế Bách và bà Nguyễn Thị Hạnh.

Bà: Nguyễn Thị Hiền, sinh năm 1959, quê Hàng Kênh, Hải Phòng. Sinh 1 trai, 1 gái: Thế Anh (1986), Thị Thu Thảo (1992).

Đời thứ 13

Ngô Thế Minh, sinh năm 1974, con trai thứ hai ông Ngô Thế Bách và bà Nguyễn Thị Hạnh.

Đời thứ 12 

Ngô Thế Vạn, sinh năm 1937, con trai thứ hai ông Ngô Thế Nhượng và bà Nghiêm Thị Bốn.

Bà: Nguyễn Thị Vân, quê Đồng Tiến, An Lão, Hải Phòng. Sinh 2 trai: Thế Phú, Thế Cường.

Bà hai: Lương Thị Hải: quê Lương Khê, An Hải, Hải Phòng. Sinh 1 gái: Thị Thương.

Đời thứ 13

Ngô Thế Phú, sinh 1964, con trai trưởng ông Ngô Thế Vạn và bà Nguyễn Thị Vân.

Bà: Đỗ Thị Bích. Sinh 2 trai : Tiến Đạt, Tiến Đức.

Đời thứ 13 

Ngô Thế Cường, sinh 1966, con trai thứ hai ông Ngô Thế Vạn và bà Nguyễn Thị Vân.

Đời thứ 12

Ngô Thế Đại, sinh ngày 19-8-1945, con trai thứ ba ông Ngô Thế Nhượng và bà Nghiêm Thị Bốn.

Bà: Đào Thị Thìn, sinh năm 1952, công nhân Xí nghiệp giày dép số 1 Hải Phòng. Sinh 3 gái: Thanh Hương (1972), Thanh Mai (1974), Thanh Huyền (1983).

- Ngô Thanh Hương, sinh năm 1972. Chồng là Hoàng Anh, sinh năm 1967. Sinh 1 trai : Hoàng Minh Châu (1997).

Đời thứ 11 

Ngô Thế Nhiếp, con trai thứ ba ông Ngô Thế Đưởng và bà Trương Thị Đúc.

Bà: Hoàng Thị Sen, người cùng làng. Sinh 3 trai, 3 gái: Thế Năm, Thế Tản,  Thế Lộc, Thị Loan (Gái), Thị Bé, Thị Bích.

- Ngô Thị Loan, chồng là Khuất Văn Đông, quê Sơn Tây, Hà Nội.

- Ngô Thị Bé, chồng là Hoàng Xi Phấn, người Hoa, định cư tại Canada.

- Ngô Thị Bích, chồng là Hồ Ngọc Công, quê Quảng Ngãi.

Đời thứ 12 

Ngô Thế Năm, con trai trưởng ông Ngô Thế Nhiếp và bà Hoàng Thị Sen.

Bà: Nguyễn Thị Miên. Sinh 4 trai: Thế Hùng, Thế Dũng, Thế Mạnh, Thế Bình.

Đời thứ 13

Ngô Thế Hùng,  con trai trưởng ông Ngô Thế Năm và bà Nguyễn Thị Miên. Định cư ở Đức.

Bà: Nguyễn Thị Sen. Sinh 2 trai 1 gái: Thế Huy, Thế Minh, Thị Quỳnh Anh.

Đời thứ 13 

Ngô Thế Dũng,  con trai thứ hai ông Ngô Thế Năm và bà Nguyễn Thị Miên.
Bà: Nguyễn Thị Trang (Được). Không có con.

Đời thứ 13

Ngô Thế Bình, con trai thứ ba ông Ngô Thế Năm và bà Nguyễn Thị Miên. Không vợ con, định cư ở Đức.

Đời thứ 13

Ngô Thế Mạnh,  con trai thứ tư ông Ngô Thế Năm và bà Nguyễn Thị Miên.

Bà: Nguyễn Thị Tính. Sinh 1 gái: Thị Đình.

Đời thứ 12

Ngô Thế Tản, con trai thứ hai ông Ngô Thế Nhiếp và bà Hoàng Thị Sen. 
Bà: Hoàng Thị Mùi, quê Hà Nội. Sinh 4 trai: Thế Việt (mất sớm), Thế Thanh, Thế Nam, Thế Tùng (mất sớm). 1 gái: Thị Nga (mất sớm).

Đời thứ 13

Ngô Thế Thanh, con trai thứ hai ông Ngô Thế Tản và bà Nguyễn Thị Mùi. 
Bà cả: Lưu Kim Tuyết, quê Hà Nội. Sinh 2 gái: Thị Mai, Thị Trúc.
Bà hai: Hoàng Việt, quê Hà Nội. Sinh 2 trai: Thế Khang, Hoàng Gia Bảo.

Đời thứ 12

Ngô Thế Lộc, con trai thứ ba ông Ngô Thế Nhiếp và bà Hoàng Thị Sen.
Bà: Đặng Thị Điệp, cùng quê. Sinh 4 trai, 1 gái: Thế Khánh, Thế Long, Thế Thi, Thế Hòa, Thị Nga.

- Ngô Thị Nga, chồng là Lê Văn Nam, ở Thị Cầu.

Đời thứ 13

Ngô Thế Khánh, con trai trưởng ông Ngô Thế Lộc và bà Đặng Thị Điệp.
Bà: Nguyễn Thị Nhung, quê Bắc Giang. Sinh 1 gái, 1 trai: Thu Ttrang, Thế An.

Đời thứ 13

Ngô Thế Long, con trai thứ hai ông Ngô Thế Lộc và bà Đặng Thị Điệp.
Bà: Nguyễn Thị Hương, cùng quê. Sinh 2 trai: Hoàng Anh, Trung Kiên.

Đời thứ 13

Ngô Thế Thi, con trai thứ ba ông Ngô Thế Lộc và bà Đặng Thị Điệp.
Bà: Hoàng Thị Oanh, cùng quê. Sinh 2 gái 1 trai: Mai Phương, Như Quỳnh, Thế Quý.

Đời thứ 13

Ngô Thế Hòa, con trai thứ tư ông Ngô Thế Lộc và bà Đặng Thị Điệp.
Bà: Nguyễn Thị Hường, quê Nam Định. Sinh 1 trai: Quang Vinh.

Đời thứ 11

Ông Ngô Thế Khoản, còn gọi là Thế Tám, con trai thứ tư ông Ngô Thế Đưởng và bà Trương Thị Đúc. Ông bị Pháp bắt trong một trận càn và mất tích năm 1949. Giỗ ngày 24 tháng 10.

Bà: Nguyễn Thị Hý, người cùng làng. Sinh 2 trai, 4 gái: Thế Ngưng, Đức Cầm, Thị Thuận (chết trẻ), Thị Bằng, Thị Tâm, Thị Lý.

- Nguyễn Thị Lý, sinh năm 1945. Chồng là: Nguyễn Văn Kích (1943-2001). Sinh 1 trai, 2 gái: Nguyễn Văn Hùng (1958), Nguyễn Thị Hằng (1970), Nguyễn Thị Nga (1974).

Đời thứ 12

Ngô Thế Ngưng, con trai trưởng ông Ngô Thế Khoản (Thế Tám) và bà Nguyễn Thị Hý.

Bà: Nguyễn Thị Gái, quê xã Kim Đôi, Quế Võ, Bắc Ninh. Sinh 1 gái: Thị Hải.

Đời thứ 12

Ngô Đức Cầm, sinh năm 1932, con trai trưởng ông Ngô Thế Khoản (Thế Tám) và bà Nguyễn Thị Hý. Ông là công nhân Nhà máy Nhựa Hải Phòng, sau đó là Xí nghiệp Giầy dép 7 Hải Phòng, đã nghỉ hưu.

BàĐặng Thị Nhung, sinh năm 1946. Sinh 4 gái: Thị Hạnh (chết trẻ), Thị Hường (1954), Thị Huyền (1958), Thị Hà (1960)

Đời thứ 11

Ngô Thế Điệp, con trai thứ năm (út) ông Ngô Thế Đưởng và bà Trương Thị Đúc. Sinh thời, ông là cán bộ Nhà máy xay Lương Yên, Hà Nội.

Bà: Trần Thị Chín, người cùng làng. Sinh 2 trai, 4 gái: Thế Chiến, Thế Thắng, Thị Huyền, Thị Bình, Thị Tý, Thị Thanh.

Đời thứ 12

Ngô Thế Chiến, con trai trưởng ông Ngô Thế Điệp và bà Trần Thị Chín. Ông là Trưởng phòng Kiểm tra chất lượng sản phẩm Nhà máy xe đạp Thống nhất.

Bà: .... Sinh 2 trai: Thế Phong, Thế Duy.

Đời thứ 12

Ngô Thế Thắng, con trai thứ hai ông Ngô Thế Điệp và bà Trần Thị Chín. Bà: .... Sinh 1 trai: Thế Tuấn.