video mạng phần cứng
Bìa và lời chú bản Gia phả họ Ngô Đáp Cầu do cụ NGÔ TRỌNG TỐ biên soạn năm 1877

Bia Đình làng Đáp Cầu

BIA ĐÌNH LÀNG
Đáp Cầu – Bắc Ninh

Bia số 1

Phiên âm:

TRÙNG THUYÊN DANH TỪ SỰ TÍCH

 

Phụng biên Vân Mẫu linh từ sự tích.

Thần Mẫu Quế Dương Vân Mẫu nhân dã, niên nhị thập nhị mộng dữ thần giao nhi dựng, sinh hạ tứ nam, nhất nữ. Cập trưởng mệnh danh Đệ nhất Trương tả Khẩu hữu Khổng, Đệ nhị Trương tả Khẩu hữu Hạt, Đệ tam tả Khẩu hữu Mạch, Đệ tứ tả Khẩu hữu Lễ, nhất nữ kě danh Mỹ Đạm công chúa. Huynh đệ nięn thập bát, thị tuế Kỉ Hợi tứ nguyệt thập ngũ nhật Thần Mẫu thọ chung. Niên nhị thập sự Triệu Việt Vương, bái vi Thượng tướng, tài lực quá nhân, lũ trứ công tích. Đệ tam, Đệ tứ thường vi bản bộ thần tướng Triệu dịch tính hậu, Nhị Trương năi hướng Phù Lan sơn dưỡng hối, Lý Nam đế lũ trưng bất chí. Huynh đệ tương ngữ viết: “Trung thần bất sự nhị quân", nãi chiêu chu tựu Nguyệt Đức giang, chỉ thiên tự thệ, trầm chu dĩ dẫn kỳ tích yên. Đệ nhất Trương tại Hương La, Đệ nhị Trương tại Phượng Nhăn, hậu Triệu phục hưng, Lương khiển tướng nam xâm. Triệu quân bá thiên cư Dạ Trạch gian. Dạ mộng nhị thần viết: “Thần huynh đệ Triệu tướng dă, thỉnh hiệu linh dĩ thanh Lương khấu”. Minh nhật Triệu dữ Lương chiến, Lương binh đại bại. Triệu quân phục quốc, tặng vi: Thượng đẳng thần, sắc sở tại phụng sự. Cập Lę Đại Hŕnh Thiên Phúc nguyên niên, Tống quốc hựu mệnh tướng nam xâm, Lê bất năng cự, mật đảo bách thần. Dạ kiến nhất thần xuyęn bạch y do Bình Giang nam lai, nhất thần xuyên xích y do Nguyệt Đức giang hạ, tự hướng tặc công chi. Thập nguyệt nhị thập nhất nhật dạ, Tống binh quá Nguyệt giang ước dữ Lê chiến, hốt văn Như Nguyệt không trung lăng ngâm thi viết:

                Nam quốc sơn hà nam đế cư
                Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
                Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
                Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Tống binh đại hội, Lê chủ ban sư khánh thưởng tặng: phong Đệ nhất Trương Khước Địch Đại vương, Đệ nhị Trương Uy Địch Đại vương, sắc duyên giang chi dân phụng tự chi.

Hoàng triều Thiệu Trị dĩ tiền, bản xã phụng tự Đệ nhất vị Đại vương, chí ngũ lục niên, bản xã phụng thỉnh Phượng Nhãn linh từ Đệ nhị vị Đại vương duệ hiệu đồng phụng sự. Lịch triều cụ hữu mỹ tự ban sắc phong. Chí Tự Đức tam thập tam nięn, mông tân sắc gia phong: Hiệp thuận Trác vĩ đẳng tự bản xă cung tả sắc văn phụng sự, vạn thế hương hoả bất tuyệt yęn.

Thành Thái thập thất niên tuế tại Ất Tỵ mạnh hạ sơ cửu nhật.

Bản xã phụng thuyên.

 

*

*         *

 

Dịch nghĩa:

KHẮC BIA GHI LẠI SỰ TÍCH ĐỀN THIĘNG

 

Phụng biên sự tích đền thiêng ở Vân Mẫu.

Thân mẫu của Thần là người xã Vân Mẫu, huyện Quế Dương. Năm 22 tuổi, bà nằm mơ thấy mình giao hòa với thần nhân, thế rồi mang thai. Sau sinh hạ được 4 trai, 1 gái. Đến khi các con khôn lớn mới đặt tęn: Người con trưởng là Trương Hống, thứ hai là Trương Hát, thứ ba là Trương Lừng, thứ tư là Trương Lẫy, còn người con gái tên là Mỹ Đạm công chúa. Đến năm anh em ngài 18 tuổi, vào ngày 15 tháng 4 năm Kỷ Hợi thì Thân mẫu của Thần qua đời. Năm các ngài lên 20 tuổi, được Triệu Việt Vương phong làm Thượng tướng. Ai nấy đều tài sức hơn người, lập nhiều công tích. Ngài Đệ tam, Đệ tứ thường được giữ làm Bản bộ Thần tướng. Sau họ Triệu bị họ khác thay thế, hai ông mai danh ẩn tích ở núi Phù Lan. Lý Nam Đế nhiều lần vời mà không đến. Anh em ông bảo nhau rằng: “Kẻ trung thần không thờ hai vua”. Sau đó cùng lên thuyền chèo ra giữa dòng sông Nguyệt Đức, chỉ lên trời mà tự thề, rồi dìm thuyền tự tận bỏ hết dấu vết. Đệ nhất Trương ở vùng Hương La, Đệ nhị Trương ở vùng Phượng Nhãn. Sau nhà Triệu phục hưng, vua nhà Lương sai tướng sang xâm chiếm nước Nam. Triệu vương bỏ chạy rồi đem quân đến đóng ở đầm Dạ Trạch, nửa đęm mộng thấy hai vị thần nhân đến nói rằng: "Anh em thần là tướng nhà Triệu, xin giúp vua quét sạch giặc Lương". Ngày hôm sau, quân Triệu quyết chiến với quân Lương, quân Lương đại bại. Vua Triệu phục quốc, bèn gia tặng cho hai ngài làm Thượng đẳng thần, và ban sắc cho dân sở tại phụng thờ. Đến năm Thięn Phúc (980) đời Lę Đại Hŕnh, nước Tống lại sai tướng sang xâm lược nước ta, nhà Lê không thể chống cự được, bèn mật cầu trăm thần sông núi. Đęm ấy nằm mơ thấy một vị thần mặc áo trắng từ hướng nam sông Bình Giang đi tới, một vị thần mặc áo đỏ từ phía dưới sông Nguyệt Đức đi lęn, có dáng như cùng xông vào đánh giặc. Đęm ngày 21 tháng 10, quân Tống đã vượt qua sông Nguyệt Giang hẹn quyết chiến cùng nhà Lê, bỗng nghe trên không trung sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ:

                Sông núi nước Nam, vua Nam ở
                Điều đó đă định ở sách trời
                Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
                Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

Quân Tống tan vỡ. Vua Lê đem quân khải hoàn, ban thưởng công cho các thần: Đệ nhất Trương là Khước Địch Đại vương, Đệ nhị Trương lŕUy Địch Đại vương, lại ban sắc cho dân thôn men theo hai bên bờ sông phụng thờ.

Từ thời Thiệu Trị triều ta trở về trước bản xã phụng thờ Đệ nhất vị Đại vương. Đến năm Thiệu Trị thứ 5, thứ 6 (1845, 1846) thě bản xã lại xin duệ hiệu của Đệ nhị vị Đại vương miếu thần ở huyện Phượng Nhãn về cùng phụng thờ. Trải qua các triều đế vương đều có sắc phong, ban cho mỹ tự. Đến năm thứ 33 (1880) đời Tự Đức phong thęm mỹ tự cho các ngài: Hiệp thuận Trác vĩ. Bản xã cung kính chép sắc văn phụng thờ, hương hoả muôn đời không dứt vậy.

Ngày mùng 9 tháng Mạnh hạ (tháng 4) năm Ất Tỵ

niên hiệu Thành Thái thứ 17 (1905).

Bản xã phụng khắc.

 

Bia số 2

Phiên âm:

THƯỢNG ĐẲNG DANH TỪ

 

Bản từ tôn thần Nhị Trương Kinh Bắc, Quế Dương, Vân Mẫu nhân dã. Sơ Triệu Việt Vương dĩ cố quân Tiền Lý Nam đế vi Lương tướng sở bại, vãng cứ Sơn Nam Đông An, ngẫu nhân Tiên Dung hứa dĩ long trảo. Nhị Trương toại năng ngự Lương kiến đô vu Sơn Tây Từ Lięm Quân Thần châu. Nam Đế đệ Phật Tử hŕnh thành vu Triệu Việt Vương, cát Quân Thần châu phân vi đông Triệu tây Lý. Nhị Trương gián nhi bất tòng, toại ẩn vu Phù Lan. Hậu Phật Tử dữ nam tử Bát Lang mưu thủ Triệu Việt Vương long trảo, cầu hôn vu Triệu. Triệu Vương dĩ nữ tử Cảo Nương giá Bát Lang, Nhị Trương gián hựu bất thính, tái quy Phù Lan. Bát Lang nhân Cảo Nương đắc long trảo, cử binh diệt Triệu, toại năng phục quốc hiệu viết: Hậu Lý Nam Đế. Nhị Trương kięn ẩn bất ứng. Lý chỉ phong tặng vi Thượng đẳng, hứa vi Phů Lan miếu thần. Đinh Můi Tống khiển Nhân Bảo lai xâm, thời Lê Đại Hành tân thụ đinh tường xuất sư tự Sơn Tây chí Kinh Bắc chỉ xá Thiên Đức giang thứ, dạ mộng nhị nhân tựu tiền tự xưng nhị Trương nguyện tự lực dĩ bình Ngô, tu du nhị nhân phục khứ. Lê hoàng nga gian tiến chí Nhân Bảo quân thứ, phương tiếp chiến thời thốt văn không trung hữu ngâm thi vân:

                Nam quốc sơn hà Nam đế cư
                Hoàng thiên phận định tại thiên thư
                Như hà Bắc lỗ lai xâm phạm
                Định kiến kinh trần tận khử trừ.

Lê hoàng nhân dữ Tống chiến, quả năng bình Ngô, nãi hồi trú Yên Phong, sắc phong Đại tướng Trương Hống: Đại đương Hộ quốc, miếu tại Nguyệt Giang tức Ngă Ba Cai, Trương Hát: Tiểu đương Thần vương, miếu tại Běnh Giang tức Ngã Ba Nhãn. Lũy triều gia phong: Thượng đẳng. Thánh mẫu sở ngự chi miếu, thánh tử sở cư chi điền, hiện tại Vân Mẫu.

Nguyễn triều Bính Dần niên, trọng thu nguyệt, thượng cán nhật khắc thạch.

Tháp Cầu danh từ cựu tích thạch bi, lập tại nội từ địa diện.

*

*       *

Dịch nghĩa:

ĐỀN THỜ ĐỨC THƯỢNG ĐẲNG

 

Hai vị tôn thần họ Trương thờ ở bản miếu vốn là người xã Vân Mẫu, Quế Dương, Kinh Bắc. Ngày trước Triệu Việt Vương là tướng của Tiền Lý Nam Đế bị quân Lương đánh bại, bčn dời đến giữ ở vùng Đông An, Sơn Nam, těnh cờ gặp Tiên Dung ban cho móng rồng. Nhị Trương liền đánh bại quân Lương, đóng đô ở băi Quân Thần huyện Từ Liêm trấn Sơn Tây. Em họ của Tiền Lý Nam Đế là Phật Tử hòa giải với nhà Triệu cắt phân ra phía đông lŕ nhà Triệu, phía tây là nhà Lý. Nhị Trương can gián không nghe, bèn quay về ẩn ở núi Phù Lan. Về sau Phật Tử và con trai là Bát Lang bày mưu giành lấy móng rồng của Triệu Việt Vương, liền đến cầu hôn với vua Triệu. Triệu Vương gả con gái là Cảo Nương cho Bát Lang. Nhị Trương lại can ngăn cũng không được, hai ông đŕnh quay về Phù Lan. Bát Lang nhờ Cảo Nương mà lấy được móng rồng, rồi đem binh diệt Triệu, giŕnh lấy nước, lấy hiệu là Hậu Lý Nam Đế. Nhị Trương kiên trì ở ẩn không ra giúp Hậu Lý Nam Đế. Nhŕ Hậu Lý phong cho làm Thượng đẳng, và cho dựng miếu thần ở núi Phù Lan. Năm Đinh Můi, nhà Tống sai tướng Nhân Bảo sang xâm lược. Bấy giờ, Lê Đại Hành mới lên ngôi vua xuất quân từ Sơn Tây kéo qua Kinh Bắc rồi lại trên sông Thiên Đức. Đęm ấy mộng thấy hai người đi đến trước án tự xưng lŕ Nhị Trương, nguyện ra sức diệt sạch giặc Ngô, lát sau hai người biến mất. Quân Lê Đại Hành tiến nhanh đến bên đồn của Nhân Bảo. Khi đôi bęn tiếp chiến, bỗng nghe trên không trung có tiếng ngâm thơ:

                Sông núi nước Nam, vua Nam ở
                Thượng đế đă phân ở sách trời
                Cớ sao giặc Bắc sang xâm phạm
                Chắc hẳn bụi trần quét sạch không.

Vua Lê cùng nhà Tống quyết chiến một trận, quả nhiên dẹp yên giặc Ngô rồi trở về Yên Phong. Sắc phong cho Đại tướng Trương Hống là Đại đương Hộ quốc, miếu thờ ở Nguyệt Giang tức Ngã Ba Cai; còn Trương Hát là Tiểu đương Thần vương, miếu thờ ở Bình Giang tức Ngã Ba Nhãn.

Trải qua các triều đế vương đều gia phong lŕ Thượng đẳng, miếu thờ Thánh mẫu, ruộng đất cấp cho Thánh tử ở, hiện đều có ở Vân Mẫu.

Ngày thượng tuần, tháng trọng thu (tháng 8)
năm Bính Dần (1926) thuộc triều Nguyễn khắc bia.

Bia đá ghi lại sự tích cũ của ngôi đền danh tiếng ở Tháp Cầu xưa được dựng ngay trên nền trong miếu.