Đời thứ Tám
NGÔ THẾ THỨC, con trai thứ ba ông Ngô Thế Dịch và bà Hoàng Thị Hiến.
Bà: Đỗ Thị Gián, sinh 1 trai: Thế Thành.
Đời thứ 9
Ngô Thế Thành, con độc nhất ông Ngô Thế Thức và bà Đỗ Thị Gián
Bà: Trương Thị Lương, sinh 1 trai: Thế Cau.
Đời thứ 10
Ngô Thế Cau, con độc nhất ông Ngô Thế Thành và bà Trương Thị Lương
Bà: Trần Thị Thuận, sinh 1 trai: Thế Mâu
Bà thứ: Nguyễn Thị Phố, quê làng Đạo Ngạn, xã Quang Châu, huyện Việt Yên, Bắc Giang. Bà mất ngày 15-6 năm Giáp Thân (03-8-1944). Sinh 2 trai, 2 gái: Thế Tuất, Thế Sáu, Thị Khích, Thị Năm.
- Ngô Thị Khích, lấy chồng ở Gia Thụy, Gia Lâm, Hà Nội.
- Ngô Thị Năm, lấy Hạ Bá Sớ, người cùng làng.
Đời thứ 11
Ngô Thế Mâu, con trai trưởng ông Ngô Thế Cau và bà Trần Thị Thuận. Mất ngày 02-4. Mộ táng tại Đồng Bối.
Bà: Vũ Thị Tý, người cùng làng. Mất ngày 04-12, thọ trên 80 tuổi. Mộ táng tại Nghĩa trang Thanh Sơn, Vũ Ninh.
Ông bà buôn bán, lao động tại Đáp Cầu. Sinh 2 trai, 1 gái: Thế Mậu, Thế Mầu, Thị Dụt.
- Ngô Thị Dụt, chồng là Hoàng Văn Tư, người cùng làng, là thợ gò hàn Nhà máy gạch Đáp Cầu.
Đời thứ 12
Ngô Thế Mậu (Mậu Lớn), con trai trưởng ông Ngô Thế Mâu và bà Vũ Thị Tý.
Cách mạng tháng Tám thành công, ông tham gia tự vệ và là một trong số chỉ huy trung đội tự vệ chiến đấu khi quân Pháp trở lại chiếm đóng Bắc Ninh, Đáp Cầu. Hòa bình lập lại, ông tham gia hoạt động Mặt trận Tổ quốc khu phố Đáp Cầu và Thị xã Bắc Ninh. Ông mất ngày 22-6, thọ gần 70 tuổi. Mộ táng tại Nghĩa trang Thanh Sơn, Vũ Ninh.
Bà: Vũ Thị Lợi, người cùng làng. Sinh 2 trai, 3 gái: Thế Chiến, Quốc Hưng (Thức), Thị Yến (chết trẻ), Thị Vượng, Thị Quỳnh.
- Ngô Thị Vượng, chồng Nguyễn Thụ, người cùng làng, đã mất.
- Ngô Thị Quỳnh, chồng Hạ Quốc Bảo, người cùng làng. Công nhân, đã nghỉ hưu.
Đời thứ 13
Ngô Thế Chiến, con trai trưởng Ông Ngô Thế Mậu và bà Vũ Thị Lợi. Ông đi bộ đội và chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Là Liệt sỹ, hy sinh năm 1968.
Đời thứ 13
Ngô Quốc Hưng (Thức), con trai thứ hai ông Ngô Thế Mậu và bà Vũ Thị Lợi.
Bà: Đào Thị Hòa, người cùng làng. Sinh 2 trai, 2 gái: Quốc Trí, Thị Minh Hạnh, Thị Thu Huyền, Thế Dương.
- Ngô Thị Minh Hạnh, sinh 1980. Chồng là Trần Văn Dương, quê Hiệp Hòa, Bắc Giang. Sỹ quan quân đội, sau xuất ngũ kinh doanh vận tải. Sinh 2 trai: Trần Minh Hiếu, Trần Văn Duy.
- Ngô Thị Thu Huyền: Sinh 1982. Chồng là Nguyễn Văn Thiện, quê Thị trấn Thứa, Lương Tài, Bắc Ninh. Vợ chồng sinh sống tại Thành phố Nishio-Nhật Bản. Sinh 3 con: Nguyễn Khánh Vân, Nguyễn Bảo An, Nguyễn Bảo Châu.
Đời thứ 14
Ngô Quốc Trí, sinh năm 1978. Con trai trưởng ông Ngô Quốc Hưng và bà Đào Thị Hòa. Kỹ sư điện trường đại học Bách khoa Hà Nội.
Bà: Nguyễn Thị Thủy Chung. Sinh năm 1980, cử nhân Luật, công chức UBND Phường Suối Hoa, Bắc Ninh. Đến 2018, sang cùng chồng tại Nishio-Nhật Bản. Sinh 1 trai, 2 gái: Trí Kiên, Tuệ Mi, Nhật Ánh.
Đời thứ 15
Ngô Trí Kiên, con trai trưởng ông Ngô Quốc Trí và bà Nguyễn Thị Thủy Chung. Học sinh trưởng THCS Suối Hoa, Bắc Ninh.
Đời thứ 14
Ngô Thế Dương, sinh năm 1985. Con trai thứ hai ông Ngô Quốc Hưng và bà Đào Thị Hòa. Kỹ sư Công nghệ thông tin, làm việc tại Nhật Bản (2007-2010), sau về nước làm Trưởng phòng Kinh doanh doanh nghiệp nước ngoài.
Bà: Ngô Thị Phượng. Sinh năm 1991, quê Dũng Liệt, Yên phong, Bắc Ninh. Cử nhân kế toán. Làm việc tại doanh nghiệp nước ngoài. Sinh 2 trai: Quốc Lân (2016), Quang Hải (2020).
Đời thứ 12
Ngô Thế Mầu (Mậu con), con trai thứ hai ông Ngô Thế Mâu và bà Vũ Thị Tý. Mất ngày 26-6, thọ 68 tuổi. Mộ táng tại Đồng Bối.
Sinh thời, ông vào Nam kiếm sống. Sau ra Bắc theo các chủ thầu xây dựng cầu cống. Do sức khỏe yếu ông về làng làm nghề thủ công. Ông tích cực nghiên cứu về lịch sử.
Bà: Nguyễn Thị Nương, mất sớm, có 1 con gái: Thị Mai.
Bà hai: Nguyễn Thị Phú, quê ở Đa Phúc, sinh 1 trai: Thế Thắng.
Đời thứ 13
Ngô Thế Thắng, con độc nhất ông Ngô Thế Mầu và bà Nguyễn Thị Phú.
Bà: Nguyễn Thị Hồng, quê Nội Roi, Đại Xuân, Quế Võ, Bắc Ninh. Sinh 2 trai, 1 gái: Thế Tuấn, Thị Thủy, Thế Thanh.
Đời thứ 11
Ngô Thế Tuất, con trai thứ hai ông Ngô Thế Cau và bà Nguyễn Thị Phố. Mất ngày 08-7 năm Kỷ Sửu (31-8-1949). Mộ táng tại Đồng Bối.
Ông là công nhân Nhà máy giấy Đáp Cầu. Kháng chiến ông làm thợ xeo giấy ở làng Bầu, huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang.
Bà: Trương Thị Tháu, người cùng làng. Bà làm công việc nội trợ và buôn bán. Mất ngày 23-6 năm Canh Dần (06-8-1950). Sinh 3 trai, 1 gái: Thế Chinh, Thế Thuật, Thế Hùng, Thị Hợp.
- Ngô Thị Hợp, công nhân nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ Thái Nguyên, đã nghỉ hưu. Chồng là Nguyễn Văn Cử, cán bộ tổ chức Nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ, Thái Nguyên. Sinh 2 trai, 1 gái: Nguyễn Hoàng Trung, Nguyễn Mai Hồng, Nguyễn Trung Dũng.
Đời thứ 12
Ngô Thế Chinh, con cả ông Ngô Thế Tuất và bà Trương Thị Tháu. Ông là thợ nguội Nhà máy giấy Đáp Cầu, sau làm ở Nhà máy giấy Xavanakhet (Lào). Kháng chiến, ông vào bộ đội, là Trung đội trưởng, chiến đấu ở Cămpuchia. Ông bị ốm và mất ngày 05-11 năm Mậu Tý (05-12-1948) tại Lào.
Đời thứ 12
Ngô Thế Thuật, sinh ngày 05-8-1928 (20-6 năm Mậu Thìn), con trai thứ hai ông Ngô Thế Tuất và bà Trương Thị Tháu. Năm 1944 là công nhân Nhà máy giấy Đáp Cầu. Kháng chiến, ông theo Nhà máy lên Chợ Chu (Thái Nguyên). Hòa bình lập lại là công nhân Nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ, Thái Nguyên. Sau được điều làm công tác công đoàn. Từ 1961-1968 là Phó Thư ký Liên hiệp công đoàn tỉnh Thái Nguyên. Tốt nghiệp Đại học Kinh tế công nghiệp năm 1968. Đầu năm 1970 được điều chuyên trách công tác Đảng. Tham gia 4 khóa BCH Đảng bộ tỉnh Bắc Thái, trong đó có 2 khóa làm Trưởng ban Tổ chức, Chủ nhiệm ủy ban Kiểm tra Đảng. Cuối năm 1987 nghỉ hưu.
Bà: Nguyễn Thị Bào, sinh năm 1931 (Tân Mùi), người làng Yên Mẫn, xã Kinh Bắc, Thị xã Bắc Ninh. Làm việc tại Nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ, Thái Nguyên từ năm 1949 cho đến năm 1980 thì nghỉ hưu. Sinh 3 gái, 1 trai: Nguyệt Nga, Tú Lan, Thị Liên, Thế Toản.
- Ngô Nguyệt Nga, sinh năm 1957. Chồng là Tống Sơn Hà. Cả hai đều là kỹ sư chăn nuôi, cán bộ nhà nước. Sinh 1 trai, 1 gái: Tống Sơn Huy (1980), Tống Diệu Linh (1982)
- Ngô Thu Lan, sinh năm 1960, giáo viên cấp II. Chồng là Nguyễn Trọng Tiến, giáo viên Trường Đoàn Đội Trung ương. Sinh 1 trai, 1 gái: Nguyễn Tiến Dũng (1983), Nguyễn Thị Thảo Đan (2000)
- Ngô Thị Liên, sinh năm 1963. Chồng là Lê Huy Cường, cán bộ nhà nước. Sinh 1 gái, 1 trai: Lê Thu Trang, Lê Đức Bình.
Đời thứ 13
Ngô Thế Toản, sinh năm 1973, con ông Ngô Thế Thuật và bà Nguyễn Thị Bào, quê Thanh Trì, Hoàng Mai, Hà Nội. Kỹ sư cơ điện đại học Bách Khoa Hà Nội. Công tác tại Công ty TNHH Vinmex.
Bà: Nguyễn Thị Ngọc Hường. Sinh năm 1976. Sinh 1 gái: Thanh Ngọc (2003).
- Ngô Thanh Ngọc, sinh năm 2003. Sinh viên đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Đời thứ 12
Ngô Thế Hùng, sinh năm 1939. Con trai thứ ba ông Ngô Thế Tuất và bà Trương Thị Tháu. Là công nhân nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ, Thái Nguyên. Năm 1960 được điều về Nhà máy giấy Việt Trì. Tốt nghiệp Kỹ sư chế tạo máy tại Đại học Bách khoa khóa 1964-1968. Sau đó được điều vào quân đội đến năm 1990 thì nghỉ hưu với hàm Thiếu tá. Mất ngày 21-02 nhuận Giáp Thân (11-3-2004). Thọ 66 tuổi. Mộ tại Nghĩa trang Đồng Bối, Đáp Cầu.
Bà: Vũ Thị Thảo. Sinh năm 1948, người cùng làng. là cán bộ ngành thương nghiệp tại Công ty ăn uống thị xã Bắc Ninh từ 1980 đến năm 1993 thì nghỉ hưu. Sinh 2 gái, 1 trai: Minh Hiền, Thu Hà, Thế Hiếu.
- Ngô Minh Hiền, sinh năm 1970, doanh nghiệp tư nhân. Chồng là Trần Hải Sơn, quê Sơn Tây, Hà Nội, doanh nghiệp tư nhân tại Ninh Xá, TP. Bắc Ninh. Sinh 2 trai: Trần Hải Long (1994), Trần Hải Lân (1995).
- Ngô Thu Hà, sinh năm 1973, thạc sỹ Luật, giảng viên Học viện Ngân hàng. Chồng là Hà Sỹ Hải, quê Tân Chi, Tiên Du, Bắc Ninh. Doanh nghiệp tư nhân tại Cầu Giấy, Hà Nội. Sinh 1 trai, 1 gái: Hà Hải Anh (2004), Hà Hiển Long (2009).
Đời thứ 13
Ngô Thế Hiếu, sinh ngày 09-11-1978. Con trai trưởng ông Ngô Thế Hùng và bà Vũ Thị Thảo. Cử nhân Quản trị Du lịch, cử nhân Ngôn ngữ Anh, Thạc sỹ Quản lý văn hóa, công chức Sở Thương Mại-Du Lịch tỉnh Bắc Ninh (tháng 11-2000 đến tháng 4-2008, Sở Văn hóa, Thể thao và du lịch Bắc Ninh từ tháng 5-2008 đến nay).
Bà cả: Trần Thị Thắng. Sinh tháng 07-1979, quê Đông Tiến, Quang Châu, Việt Yên, Bắc Giang. Cán bộ Học viện Ngân Hàng - phân viện Bắc Ninh. Sinh 2 trai: Khang Huy, Trần Tùng Lâm.
Bà hai: Ngô Thị Thu Hằng. Sinh năm 1991, quê Tiên Tân, Duy Tiên, Hà Nam. Giáo viên THCS Kinh Bắc, TP. Bắc Ninh. Sinh 2 gái, 1 trai: Minh Anh (2015), Hoàng Linh (2019), Hoàng Đức (2023).
Đời thứ 14
Ngô Khang Huy, sinh năm 2004. Con trai trưởng ông Ngô Thế Hiếu và bà Trần Thị Thắng. Sinh viên trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội.
Đời thứ 14
Ngô Trần Tùng Lâm, sinh năm 2009. Con trai thứ hai ông Ngô Thế Hiếu và bà Trần Thị Thắng. Học sinh trường THCS Nguyễn Đăng Đạo, TP. Bắc Ninh.
Đời thứ 11
Ngô Thế Sáu, con út ông Ngô Thế Cau và bà Nguyễn Thị Phố. Mất ngày 19-5 năm Giáp Thân (09-7-1944), thọ trên 50 tuổi. Mộ táng tại nghĩa trang Đồng Bối.
Bà: Trần Thị Thư, người cùng làng. Mất ngày ..., thọ trên 60 tuổi. Mộ táng tại nghĩa trang Đồng Bối. Sinh 1 trai, 1 gái: Thế An, Thị Hồng.
Ông là thợ may, bà buôn bán.
Đời thứ 12
Ngô Thế An, con ông Ngô Thế Sáu và bà Trần Thị Thư.
Bà: ..., sinh 1 trai: Thế Anh (1980).